Ung thư tuyến thượng thận là một căn bệnh ác tính hiếm gặp, khó phát hiện và thường mang lại những rối loạn nặng về hormone trên cơ thể người bệnh. Tỉ lệ sống sót trên 5 năm của bệnh nhân ung thư tuyến thượng thận được ước tính là 65% khi khối u được phát hiện vẫn đang khu trú tại tuyến thượng
Truðng hqp nguði du tuyen thuôc nhieu diên tru tiên nêu trên thi chi duqc cong diem tru tiên cao nhat vào kêt quå diêm vòng 2. 4. Hình thúc, nQi dung, trình tv, thÖi gian tuyön dvng 4.1. Hình thi'rc, nêi dung tuyen (Igng a) flình thúc tuyen dung: Thuc hiên tuyen dung thông qua xét tuyen. b) Nêi dung xét tuyên:
Ung thư dạ dày - Căn bệnh phổ biến. Theo bác sỹ Foo Kian Fong, chuyên gia tư vấn cấp cao, bác sĩ ung thư nội khoa tại Trung tâm Ung thư Parkway Singapore (PCC), có nhiều năm kinh nghiệm trong điều trị ung thư dạ dày, hằng năm bệnh ung thư dạ dày đã cướp đi sinh mạng của gần 700.
Viêm gan B được coi là sát thủ thầm lặng bởi bệnh phát triển âm thầm trong cơ thể, ít có biểu hiện rõ ràng. Chỉ khi bệnh nặng, chuyển sang giai đoạn mãn tính, người bệnh mới cảm nhận thấy rõ những dấu hiệu bất thường trong cơ thể, chính vì vậy khi có những triệu chứng như : ☑ Cơ thể mệt mỏi ☑ Chán ăn, bỏ bữa ☑ Rối loạn tiêu hóa
TCCT Từ ngày 06/12/2021 đến ngày 11/12/2021, Tuần thi thứ Tư Trắc nghiệm trực tuyến "Tìm hiểu Truyền thống ngành Công Thương" chính thức được khởi động với nhiều phần quà hấp dẫn dành cho những người thắng cuộc. Hoạt động Trắc nghiệm trực tuyến "Tìm hiểu
Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Khi bạn bị ung thư biểu mô tuyến thượng thận, bạn có một khối u ung thư trong vỏ thượng thận. Đây là phần bên ngoài của tuyến thượng thận. Ung thư biểu mô tuyến thượng thận rất hiếm. Các bác sĩ có thể chữa khỏi nếu bạn phát hiện sớm. Nhưng mức độ ác tính cao. Điều đó có nghĩa là nó lây lan nhanh chóng và nếu nó di căn ra ngoài tuyến thượng thận thì sẽ khó điều trị hơn nhânTheo Webmd, các bác sĩ không chắc chắn điều gì gây ra ung thư tuyến thượng thận. Nó bắt đầu với sự thay đổi gen của một số tế bào tuyến thượng thận, nhưng sự thay đổi đó dường như xảy ra một cách ngẫu có thể xảy ra trong gia đình, vì vậy nếu có ai trong gia đình bạn bị ung thư tuyến thượng thận hoặc các bộ phận khác của hệ nội tiết, hãy nói chuyện với bác sĩ. Nếu bạn không mắc bệnh, việc kiểm tra sức khỏe thường xuyên có thể giúp bạn phát hiện số tình trạng di truyền có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư tuyến thượng thận- Hội chứng Bệnh đa polyp tuyến gia đình FAP.- Hội chứng Đa u tuyến nội tiết túyp chứngMột số khối u đang hoạt động, có nghĩa là chúng sản xuất quá mức một trong những hormone thường được tạo ra trong tuyến thượng thận. Ở những người khác khối u không hoạt động, có nghĩa là chúng không tạo ra hormone. Khi chúng phát triển, cả hai loại khối u có thể đè lên các cơ quan của bạn và gây ra- Đau ở bụng, bên hông hoặc lưng của Cảm giác no khiến bạn không muốn ăn Một khối u trong bụng của chỉ có thể gặp các triệu chứng khác nếu bạn có một khối u đang hoạt động, điều này sẽ khiến mức hormone cao hơn bình thường. Các triệu chứng của bạn phụ thuộc vào loại hormone mà khối u tạo ra- AldosteroneQuá nhiều hormone này có thể gây ra các vấn đề, chẳng hạn như huyết áp cao, đi tiểu nhiều hơn bình thường, yếu cơ và chuột CortisolQuá nhiều cortisol gây ra nhiều triệu chứng, bao gồm dễ bầm tím, huyết áp cao, đường trong máu cao, mỡ thừa ở sau cổ của bạn, vết rạn da màu tím hoặc hồng, mặt tròn, đỏ..- EstrogenỞ phụ nữ, quá nhiều estrogen có thể dẫn đến các vấn đề như kinh nguyệt không đều, chảy máu âm đạo ở phụ nữ sau mãn kinh, tăng cân. Ở nam giới, quá nhiều estrogen có thể khiến ngực phát triển, ham muốn tình dục thấp và khó cương TestosteroneQuá nhiều testosterone có xu hướng không gây ra vấn đề ở nam giới, nhưng phụ nữ có quá nhiều có thể có giọng trầm hơn và rụng tóc và có thể ngừng kinh nguyệt.
Các nhà khoa học chưa tìm ra được nguyên nhân chính xác gây ung thư thận nhưng di truyền và môi trường có thể tăng nguy cơ mắc bệnh. Bệnh thường bắt đầu khi có sự thay đổi cấu trúc DNA trong các tế bào, khiến chúng phát triển không kiểm soát và hình thành khối u. Nếu không điều trị, ung thư phát triển và lan rộng qua hệ bạch huyết - tuyến tồn tại khắp cơ thư thận được chia thành 3 loại như sau - Ung thư biểu mô tế bào thận RCC thường bắt đầu trong các tế bào xếp thành các ống nhỏ của nephron đơn vị cấu tạo và chức năng cơ bản của thận. Loại này chiếm 85% tổng ca ung thư thận. Bệnh thường chỉ hình thành một khối u nhưng đôi khi, cũng có thể phát triển nhiều hơn ở một hoặc ở cả hai quả thận. - Ung thư tế bào chuyển tiếp hay còn gọi là ung thư biểu mô tiết niệu Đây là loại ung thư phát triền từ ống nối từ thận đến bàng quang và chiếm khoảng 10-15% tổng số ca mắc ung thư thận. - U nguyên bào thận Đâu là khối u hình thành từ thời thơ ấu do gen ức chế khối u và kiểm soát sự phát triển của tế bào bị mất hoặc không hoạt động. Trong đó, có một số yếu tố tăng nguy cơ mắc loại ung thư thật phổ biến nhất - RCC như sau- Tuổi tác Ung thư thận thường xảy ra ở người lớn tuổi, hiếm khi được chẩn đoán ở trước tuổi 45. - Giới tính RCC ảnh hưởng tới nam giới nhiều hơn phụ nữ. - Béo phì Do nội tiết tố ảnh hưởng bởi thừa cân, béo phì làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư nói chung và RCC nói riêng. - Hút thuốc Hút thuốc tăng tỷ lệ mắc RCC nhưng có thể suy giảm khi người đó bỏ thuốc. Hút thuốc khiến nguy cơ mắc ung thư thận tăng đáng kể so với người bình thường. - Huyết áp cao tăng nguy cơ mắc bệnh nhưng các bác sĩ chưa xác định được là tự thân chứng bệnh này hay do thuốc điều trị gây Hóa chất độc hại Những người tiếp xúc thường xuyên với một số hóa chất như cadmium, một số chất diệt cỏ và dung môi hữu cơ cũng có khả năng cao mắc RCC hơn bình thường. - Thuốc lợi tiểu và một số loại thuốc giảm đau Yếu tố di truyền Một số căn bệnh có tính di truyền như von Hippel-Lindau có thể tăng nguy cơ mắc ung thư thận. Nguy cơ mắc ung thư thận có thể giảm bớt nếu tuân theo một lốt sống lành mạnh, từ bỏ các thói quen xấu như hút thuốc, uống rượu...Bên cạnh đó, những người có nguy cơ mắc bệnh cao cần thường xuyên kiểm tra, trao đổi với bác sĩ để phát hiện bệnh sớm. Đó là cách tốt nhất để cải thiện tiên lượng của bệnh nhân ung thư. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ ACS, 93% ung thư không lan ra ngoài thận khi chẩn đoán, 69% ảnh hưởng đến các mô lân cận, 12% cho kết quả di căn đến các bộ phận khác của cơ Lệ Theo Medical News Today
Ung thư thận chiếm tỷ lệ thấp, khoảng 2% tổng số ung thư. Nam giới có tỷ lệ mắc bệnh ung thư thận cao hơn phụ nữ. Hầu hết người bệnh được chẩn đoán trong độ tuổi 60 và 70. Trong hai mươi năm qua, số trường hợp ung thư thận tăng nhẹ, nhưng tỷ lệ sống sót cũng đã tăng lên. Nhờ những tiến bộ về hình ảnh học như siêu âm và công nghệ chụp cắt lớp vi tính hỗ trợ chẩn đoán chính xác, ngày càng có nhiều trường hợp ung thư thận được phát hiện ở giai đoạn sớm. Bài viết chuyên môn bởi Nguyễn Tân Cương – bác sĩ khoa Tiết niệu, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Ung thư thận là gì? Ung thư thận là sự phát triển ác tính các tế bào, hình thành một khối u trong thận. Cũng cần lưu ý rằng, không phải bất kỳ một khối u thận nào cũng ác tính. Một số trường hợp có thể là u lành tính, không phải ung thư. Ung thư thận là một danh từ chung. Có nhiều biến thể khối u ác tính trong thận và các giai đoạn của bệnh. Điều trị phụ thuộc vào đặc điểm của khối u và kinh nghiệm chuyên môn. Chức năng của thận Thận là cơ quan hình hạt đậu nằm ở hai bên phía sau thành bụng, có chức năng lọc máu tạo nước tiểu. Thận cũng rất quan trọng đối với các quá trình khác trong cơ thể, bao gồm điều chỉnh huyết áp, cân bằng nước và điện giải, sản xuất các tế bào máu, và giữ cho xương của bạn khỏe mạnh. Nguyên nhân gây ung thư ở thận Nguyên nhân của ung thư thận thường khó xác định. Các yếu tố nguy cơ chung là hút thuốc và béo phì. Có người thân thế hệ gần nhất bị ung thư thận hoặc tăng huyết áp cũng là yếu tố nguy cơ tiềm ẩn. Một số thay đổi lối sống, quan trọng nhất là bỏ hút thuốc và duy trì cân nặng hợp lý, có thể giảm nguy cơ phát triển ung thư thận. Các triệu chứng của ung thư thận Trong hầu hết các trường hợp, ung thư thận thường không có triệu chứng. Bệnh chỉ được phát hiện khi siêu âm kiểm tra sức khỏe. Cứ 10 người bị ung thư thận thì có 1 người có các triệu chứng như đau một bên cơ thể, có khối u ở bụng hoặc tiểu ra máu. Những dấu hiệu cho thấy bệnh có thể đã tiến triển. Một số người cũng có thể gặp hội chứng cận ung thư. Đây là những phản ứng của cơ thể đối với bất kỳ loại ung thư nào như huyết áp cao, giảm cân, sốt, thiếu máu, giảm khối lượng cơ và chán ăn. Hội chứng cận ung thư thường liên quan đến ung thư thận bao gồm thay đổi men gan và tiểu cầu trong máu. Những thay đổi này thường được phát hiện khi làm xét nghiệm máu và thông thường không có triệu chứng. Đau xương hoặc ho dai dẳng có thể là dấu hiệu của bệnh ung thư đã lan rộng trong cơ thể. Đây được gọi là bệnh di căn. Chẩn đoán ung thư thận Nguyễn Tân Cương cho biết, do có nhiều loại u thận nên bác sĩ thực hiện một loạt các đánh giá để hiểu rõ hơn về tình trạng của bạn. Các đánh giá này bao gồm tiền sử bệnh, các xét nghiệm và chụp cắt lớp vi tính CT, đôi khi tiền sử gia đình cũng được tra cứu. Chụp CT hoặc MRI sẽ đánh giá kích thước của khối u và xâm lấn tĩnh mạch, các hạch bạch huyết hoặc các cơ quan xung quanh, điều này rất quan trọng để quyết định điều trị. Bác sĩ cũng thực hiện thăm khám và cho bệnh nhân làm các xét nghiệm máu và nước tiểu. Dựa trên kết quả chụp cắt lớp vi tính của bệnh nhân, bác sĩ tiết niệu có thể xác định giai đoạn của bệnh. Bằng cách phân tích mô khối u nhận được khi phẫu thuật hoặc sinh thiết, bác sĩ giải phẫu bệnh xác định phân nhóm phụ của khối u, có phải là loại tiến triển nhanh hay không. Phân loại này dựa trên các yếu tố như giai đoạn, phân nhóm phụ và độ ác tính tế bào của khối u. Phân loại khối u thận được sử dụng để ước tính tiên lượng. Dựa trên tiên lượng này, bác sĩ sẽ thảo luận về lộ trình điều trị tốt nhất cho bệnh nhân. “Trong một số trường hợp, người bệnh có thể cần các thử nghiệm bổ sung để kiểm tra chức năng thận. Điều này rất quan trọng nếu người bệnh chỉ có một quả thận hoặc có nguy cơ bị suy thận vì mắc bệnh tiểu đường, huyết áp cao, nhiễm trùng mãn tính hoặc bệnh thận”, Nguyễn Tân Cương chia sẻ. Hình ảnh học rất quan trọng trong chẩn đoán và phân loại của khối u thận. Hầu hết các kỹ thuật hình ảnh phổ biến là siêu âm, chụp CT và MRI. Trong một số trường hợp, sinh thiết được thực hiện để hiểu rõ hơn về các đặc điểm cụ thể của khối u. Chụp cắt lớp hệ tiết niệu có tiêm chất tương phản Sau khi phát hiện khối u, trước tiên bác sĩ cần biết u có phải là ác tính hay không. Chụp cắt lớp vi tính, hoặc MRI bụng và chậu tăng cường độ tương phản cung cấp nhiều thông tin như Vị trí và kích thước của khối u; Kích thước hạch to hay nhỏ; Khối u có xâm lấn sang các cơ quan lân cận hay không, chẳng hạn như tuyến thượng thận, gan, lách hoặc tuyến tụy; Đường tiết niệu có bị ảnh hưởng bởi khối u không… Chất tương phản được tiêm qua đường tĩnh mạch, thường ở cánh tay của người bệnh. Chất tương phản làm nổi bật các tĩnh mạch và động mạch bằng các hình ảnh có đậm độ và màu sắc khác nhau. Tùy theo kiểu khảo sát, cho phép bác sĩ phân tích hình ảnh khối u. Các kết quả đồng thời sẽ cho bệnh nhân biết hướng dẫn điều trị. Nếu bị dị ứng với chất tương phản, người bệnh sẽ được chụp MRI hoặc chụp CT mà không có chất tăng cường độ tương phản. Nếu bác sĩ cho rằng ung thư có thể đã di căn đến phổi, bệnh nhân sẽ được kiểm tra thêm, như chụp CT ngực. Nếu bệnh nhân có các triệu chứng như đau xương hoặc động kinh, có thể cần chụp xương hoặc não để kiểm tra liệu ung thư đã di căn đến xương hoặc não. Sinh thiết khối u thận Sinh thiết khối u thận là lấy ra một hoặc nhiều mẫu từ khối u. Người bệnh được gây tê tại chỗ, sau đó bác sĩ sẽ dùng kim xuyên qua da bệnh nhân và sử dụng siêu âm hoặc CT để xác định vị trí khối u. Các mẫu mô được phân tích bởi bác sĩ giải phẫu bệnh để giúp xác định và hướng dẫn điều trị sau này. Sinh thiết thận không phải là phương pháp tiêu chuẩn trong chẩn đoán ung thư thận. Người bệnh có thể cần sinh thiết trong trường hợp Kết quả hình ảnh học của bạn không rõ ràng; Bạn có một khối u nhỏ có thể theo dõi mà chưa cần phẫu thuật; Bạn có một khối u nhỏ có thể được điều trị bằng cách hủy u với sóng vô tuyến hoặc liệu pháp áp lạnh. Nguyễn Tân Cương lưu ý Thông thường, sinh thiết khối u thận là một thủ thuật ít nguy hại nhưng cũng có thể gây ra tiểu máu có máu trong nước tiểu. Trong một số ít trường hợp, chảy máu có thể nghiêm trọng hơn. Các giai đoạn của ung thư thận Ung thư thận chia ra nhiều giai đoạn khác nhau. Nếu khối u giới hạn ở thận và không lan rộng, được gọi là ung thư thận khu trú. Trong ung thư thận khu trú tiến triển, khối u đã phát triển ra khỏi thận vào mô xung quanh và xâm lấn các tĩnh mạch, tuyến thượng thận hoặc các hạch bạch huyết. Bệnh di căn nếu ung thư đã lan ra các hạch bạch huyết ở xa hoặc các cơ quan khác. Phân loại ung thư thận Các khối u thận được phân loại theo giai đoạn, loại phụ và mức độ ác tính của tế bào khối u. Ba yếu tố này là cơ sở để bạn có thể đưa ra lộ trình điều trị. Hệ thống đánh giá giai đoạn Giai đoạn khối u cho biết mức độ tiến triển của khối u và có di căn hay không, trong các hạch bạch huyết hoặc các cơ quan khác. Phân loại giai đoạn khối u thận dựa trên sự lan rộng của khối u và các hạch bạch huyết TNM. Bác sĩ tiết niệu đánh giá kích thước và sự xâm lấn của khối u T và xác định mức độ tiến triển dựa trên 4 giai đoạn. Các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng N hoặc ung thư đã lan sang bất kỳ bộ phận nào khác của cơ thể M cũng được kiểm tra. Nếu khối u thận di căn, chúng thường lan đến phổi, hoặc đến xương hoặc não. Phân loại khối u Bên cạnh giai đoạn, phân loại của khối u thận là quan trọng. Loại khối u được xác định bởi nhà nghiên cứu bệnh học và quy trình này được gọi là phân tích mô bệnh học. Chuyên gia bệnh học sẽ xem dưới kính hiển vi mô khối u được lấy trong sinh thiết hoặc sau phẫu thuật. Sinh thiết thận không phải là một thủ thuật tiêu chuẩn trong chẩn đoán ung thư thận. Trong hầu hết các trường hợp, người bệnh không thể biết loại khối u trước khi phẫu thuật. Khối u thận có nhiều loại khác nhau, thường gặp nhất là ung thư biểu mô tế bào thận. Trong số này, hầu hết là loại ung thư biểu mô tế bào sáng. “Nếu bạn được chẩn đoán với một khối u thận hiếm gặp, bác sĩ sẽ cung cấp thông tin chi tiết về các phương pháp điều trị khác nhau. Những điều trị này có thể khác với liệu pháp điều trị các loại ung thư thận thường gặp. Tại BVĐK Tâm Anh, các lựa chọn điều trị được thảo luận bởi một nhóm chuyên gia đa chuyên khoa, để tìm ra cách thức điều trị tốt nhất cho người bệnh”, Nguyễn Tân Cương cho biết. Nang thận Một vài khối u trong thận không phải dạng đặc mà là nang thận, đây là những túi chứa đầy dịch trong thận và dễ dàng nhận ra trên phim chụp CT. Nếu là nang thận có khả năng ác tính, những nang này cần được loại bỏ bằng phẫu thuật. Phân loại Fuhrman Thành phần thứ ba của phân loại là đánh giá mức độ ác tính của các tế bào khối u. Phân loại nhân Fuhrman là hệ thống được sử dụng phổ biến nhất để xác định điều này. Có 4 nhóm theo phân loại Fuhrman. Tiên lượng Sau khi chẩn đoán và phân loại, bác sĩ sẽ thảo luận về các lựa chọn điều trị với bệnh nhân. Các lộ trình điều trị được khuyến nghị dựa trên giai đoạn TNM, độ Fuhrman và loại khối u. Tiên lượng cụ thể trong trường hợp của bạn cũng có thể được ước tính. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng đây là một dự đoán không tính đến những diễn biến bất ngờ. Điều trị ung thư thận Nếu bệnh nhân có chẩn đoán ung thư thận khu trú, bác sĩ của có thể khuyên nên điều trị ung thư bằng các phương pháp sau Cắt bỏ một phần thận; Cắt thận triệt căn; Theo dõi chủ động; Hủy u bằng sóng vô tuyến hoặc áp lạnh. Mỗi phương pháp đều có ưu điểm và nhược điểm. Tùy vào tình trạng cụ thể của bạn mà lựa chọn phương pháp điều trị phù hợp. Nếu bạn được chẩn đoán ung thư thận tiến triển tại chỗ, bác sĩ có thể đề nghị cắt thận triệt căn hoặc tắc mạch. Khối u thận có thể di căn đến các cơ quan khác hoặc các hạch. Đây được gọi là bệnh di căn. Trong bệnh di căn, khối u thận được gọi là khối u nguyên phát và các khối u ở các cơ quan khác được gọi là di căn. Bác sĩ có thể đề nghị điều trị bệnh di căn bằng phẫu thuật, thường kết hợp với liệu pháp kháng sinh mạch, còn được gọi là liệu pháp nhắm trúng đích. Trong một số ít trường hợp, liệu pháp miễn dịch cũng có thể được sử dụng. Để điều trị di căn, xạ trị có thể được đề nghị. Nói chung, bệnh di căn không thể chữa khỏi. Việc điều trị của bệnh di căn nhằm mục đích giảm kích thước của khối u và di căn. Điều này sẽ cho người bệnh cơ hội sống lâu hơn và có ít triệu chứng hơn. Đôi khi, người bệnh không thể phục hồi sau điều trị ung thư thận. Khi điều trị không còn thành công, người bệnh có thể được đề nghị chăm sóc giảm nhẹ để sống thoải mái hơn. Chăm sóc giảm nhẹ là một khái niệm chăm sóc với mục tiêu tối ưu hóa chất lượng cuộc sống của người bệnh nếu không thể khỏi bệnh.
Bệnh ít được cộng đồng chú ý nên thường bị bỏ qua các triệu chứng cảnh báo, khó phát hiện và điều trị sớm. "Ung thư tử thần" Theo Tổ chức Ung thư toàn cầu GLOBOCAN, ung thư tụy đứng hàng thứ 8-9 về số lượng người mắc trên toàn thế giới. Ước tính, năm 2018, Việt Nam có gần người mắc mới ung thư tụy và gần 900 trường hợp tử vong. Ung thư tụy được đánh giá là bệnh khó phát hiện, khó điều trị và có tỷ lệ tử vong cao. Vì vậy, bệnh được gọi là "ung thư tử thần". Bác sĩ Nguyễn Ngọc Anh, Trưởng Khoa Ung bướu và Y học hạt nhân, Bệnh viện Nhân dân 115 cho biết Ghi nhận tại Bệnh viện Nhân dân 115, thông thường khi đến khám, điều trị tại bệnh viện, bệnh nhân đã bộc phát các triệu chứng, ở vào giai đoạn trễ giai đoạn 4. Có khoảng 80-85% bệnh nhân đến khám và điều trị ở giai đoạn trễ. Nếu bệnh nhân mổ được chỉ khoảng 5% sống sót sau 5 năm, tỷ lệ lệ tử vong trước 5 năm lên đến 95%. Bệnh nhân ung thư tụy không thể phẫu thuật có tỷ lệ tử vong gần 60-70% trong những năm đầu. “Ở giai đoạn 4, hầu như không thể phẫu thuật. Lúc này chỉ điều trị triệu chứng, chăm sóc giảm nhẹ, giải quyết các biến cố do tắc mạch gây ra, thời gian sống còn của bệnh nhân ngắn”, bác sĩ Ngọc Anh nhận định. Theo bác sĩ Ngọc Anh, tuyến tụy liên quan đến gan, mật. Khi ung thư tụy phát triển sẽ chèn ép vào đường mật, gây tắc mật, dẫn đến gan ứ mật và suy gan. Bệnh nhân tử vong trong tình trạng suy gan trước khi ung thư tụy hoành hành. Việc phẫu thuật điều trị ung thư tụy cũng phức tạp, bệnh nhân phải trải qua một cuộc phẫu thuật lớn, cắt bỏ rất nhiều cơ quan trong ổ bụng nên chất lượng sống rất kém. Bác sĩ Ngọc Anh cho biết, bệnh khó phát hiện do tuyến tụy nằm sau dạ dày. Các triệu chứng lâm sàng hoặc kiểm tra cận lâm sàng như siêu âm, CT... rất khó phát hiện, chỉ khi u lớn mới phát hiện được. “Đến khi xuất hiện các triệu chứng ra bên ngoài như đau âm ỉ vùng thượng vị, sụt cân, vàng da, vàng mắt hoặc xuất hiện cục bướu ở ổ bụng thì bệnh thường đã ở giai đoạn trễ”, bác sĩ Ngọc Anh đánh giá. Dấu hiệu cảnh báo bệnh Bác sĩ Ngọc Anh khuyến cáo Ung thư tụy có các triệu chứng như bệnh tiểu đường, đau bụng, xuất hiện cục máu đông không rõ nguyên nhân, tiêu chảy và phân nổi, vàng da, giảm cân không rõ nguyên nhân, thay đổi khẩu phần ăn... thường là khởi đầu của bệnh lý ác tính về ống tiêu hóa nói chung. “Những dấu hiệu khởi đầu nói trên rất quý giá. Khi có những dấu hiệu này, người dân cần đi kiểm tra để phát hiện sớm ung thư tụy và điều trị kịp thời”, bác sĩ Ngọc Anh khuyên. Hiện tại, điều trị ung thư tụy có thể kết hợp nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị với điều trị nhắm trúng đích, điều trị miễn dịch học, chăm sóc nâng đỡ bệnh nhân. Phương pháp điều trị tùy thuộc vào giai đoạn ung thư tụy của mỗi bệnh nhân. Theo bác sĩ Ngọc Anh, phẫu thuật điều trị ung thư tụy bằng cách cắt bỏ những khối u ở vùng đầu tụy, thân tụy, đuôi tụy... Một ca phẫu thuật ung thư đầu tụy phải cắt rất nhiều cơ quan như dạ dày, túi mật, đường mật, tá tràng, ruột non... làm chất lượng cuộc sống bệnh nhân bị ảnh hưởng rất nhiều. Cho đến nay, y học vẫn chưa xác định chính xác nguyên nhân ung thư tụy. Tuy nhiên, các yếu tố nguy cơ cao dẫn đến ung thư tụy được các bác sĩ khuyến cáo gồm Lạm dụng rượu bia, chất có cồn gây ra viêm tụy mạn tính. Những bệnh nhân viêm tụy mạn tính có tỷ lệ ung thư tụy cao gấp 20 lần bình thường, cũng như ảnh hưởng đến vấn đề tiểu đường và các bệnh nội tiết khác... Bệnh nhân hút thuốc lá có tỷ lệ ung thư tụy cao gấp 16 lần bình thường. Ăn quá mặn, quá nhiều chất béo cũng là những yếu tố cao gây ung thư. “Đặc biệt, người có ba, mẹ, anh, chị, em ruột bị ung thư tụy nên có ý thức tầm soát ung thư vì đây là bệnh lý có tính di truyền”, bác sĩ Ngọc Anh khuyến cáo thêm.
Trước hết chúng ta phải mở ra một khái niệm mới về cơ thể. Chúng ta, mỗi người, có một tâm hồn riêng của mình, có bản ngã riêng, có tư duy riêng, có thần kinh trung ương riêng. Nhưng cái tâm đó thật ra không phải là chủ nhân tuyệt đối của chúng ta. Có nhiều cái Tâm khác đồng hành, đồng hiện hữu, đồng hoạt động. Ví dụ các hệ thần kinh tự động điều khiển tim, ruột.. Hoặc tâm trí tạo ra giấc mơ… Ta không kiểm soát được hết mọi tâm thức nơi chính ta. Mỗi tâm thức đó có vẻ hơi độc lập với ta. Đó là lý do Phật nói chẳng có thật một bản ngã đâu. Thân tâm ta là nhiều thứ góp lại mà. Còn một cái này nữa, mỗi tế bào, mỗi cơ quan tạng phủ như tim thận gan phổi… lại cũng có phần tâm thức riêng của nó, dù nó có vẻ như đang phục tùng cái tâm thức chính ở Trung ương. Đây là khái niệm mới ta cần phải hiểu. Vài trường hợp chứng tỏ như có con gà bị chặt mất đầu vẫn sống tiếp, mình con rắn vẫn ngọ nguậy, nếu còn máu thì cánh tay lìa ra vẫn “sống”… Ta hiểu được rằng các cơ phận tế bào của cơ thể cũng có tâm thức riêng một phần thì ta mới hiểu thêm một chút về cơ thể của mình. Đây là khái niệm mới. Hễ là tâm thức thì nó có tình cảm. Tình cảm thì có thương, ghét, hài lòng, bất mãn, và LY KHAI. Ung thư chính là một dạng bộ phận cơ thể nổi loạn ly khai. Các tế bào không phát triển theo quy luật chung nữa, mà phát triển bừa bãi lộn xộn, có ý thù hằn trở lại chủ thể của mình. Tế bào phát triển bừa bãi, thù hận, tiết ra chất làm đau, tranh giành lấn át sự sống của cơ thể. Nếu không xử lý được, các tế bào rủ nhau nổi loạn càng lúc càng nhiều, và cả cơ thể lúc đó là một khối giặc nội tại, giết chết chủ thể luôn. Vậy nguyên nhân nào khiến các cơ phận tế bào nổi loạn ly khai? Và cách nào làm cho các cơ phận tế bào chấm dứt tâm lý nổi loạn ly khai để trở lại phát triển theo quy luật chung của cơ thể? Có hai cách phản ứng khi một bộ phận cơ thể tiếp nhận sự đối xử không hợp lý. Một là bất hợp tác, không làm việc nữa, suy giảm chức năng. Hai là nổi loạn, ly khai, thù hận, chống phá, gây đau đớn cho chủ thể. Ví dụ, hoặc là Gan suy yếu, hay Gan xuất hiện khối u, đều là các cách phản ứng lại sự đối xử bất hợp lý của cơ thể. Phổi xẹp, hay phổi tràn dịch, xuất hiện khối u, đều là cách phản ứng với sự đối xử bất hợp lý nào đó. Cơ bị teo, hay cơ bị u bướu, đều là cách phản ứng nào đó. Máu bị thiếu, máu bị tăng bạch cầu, cũng là cách phản ứng lại sự bất thường của cơ thể. Sự phản ứng bất thường của một bộ phận cơ thể có khi do nguyên nhân Nội tại, có khi do nguyên nhân Ngoại tại. Nguyên nhân Nội tại có thể là – nhiễm hoá chất độc hại từ thức ăn – nhiễm bẩn của môi trường sống xâm nhập vào hơi thở, thấm qua da ngâm mình trong bồn xà phòng lâu ngày cũng bị, vì xà phòng cũng là hóa chất – thức ăn bổ dưỡng dư thừa quá sức – hít khói thuốc lá, hay hít các loại hơi có chứa hoá chất độc hại – ép bộ phận cơ thể đó làm việc quá tải – tâm lý căng thẳng kéo dài ảnh hưởng đến bộ phận cơ thể liên quan ví dụ tuyến giáp – tâm lý hung ác tiềm tàng của chủ thể kích động sự nổi loạn của bộ phận Thực ra nói là Nội tại chứ cũng như Ngoại tại, vì nhiều thứ đưa từ bên ngoài vào. Chỉ có yếu tố tâm lý hung ác tiềm tàng là hoàn toàn nội tại, và mang theo từ kiếp trước. Còn yếu tố Ngoại tại thì thuộc về tâm linh hẳn. Do bị nghiệp gì đó, chủ thể bị các vong linh của các con vật đeo bám, và chọn một bộ phận để đeo bám dai dẳng. Các vong linh này có tâm thức, cuối cùng đã “thuyết phục” được bộ phận tại đó nổi loạn ly khai, bùng phát thành u bướu dị dạng kỳ lạ. Đây là trường hợp bộ phận của cơ thể bị bên ngoài “móc nối” để phản ứng sai trái. Khi đã phản ứng mạnh rồi thì rất khó để làm dịu tình hình lại. Ví dụ người ăn uống bổ dưỡng dư thừa quá sức làm vài bộ phận cơ thể bất mãn nổi loạn. Bây giờ có ăn kiêng cũng chưa chắc làm dịu “tâm lý” của bộ phận cơ thể đó trở lại như cũ. Thà chưa xảy ra, xảy ra rồi rất khó vãn hồi trật tự. Còn nguyên nhân Ép bộ phận cơ thể làm việc quá tải thì thật là đáng suy ngẫm. Ta có nói về yếu tố tâm thức riêng rẽ của mỗi bộ phận cơ thể, đó là khái niệm mới. Sau này ta cũng sẽ nói về cơ chế KHÍ LỰC VÔ HÌNH của cơ thể. Đông Y khai thác rất nhiều về cơ chế Khí lực vô hình này mà chữa trị được rất nhiều bệnh. Có lần gặp người kêu nhức đầu, bác thấy người này nhức đầu do lực chạy lên não, khí lực trống ở dưới, nên kêu ai bấm huyệt Túc tam lý dưới đầu gối giùm, chưa đầy một phút là đầu họ hết nhức. Huyệt Túc tam lý có công năng tạm thời kéo lực xuống lại. Vậy thôi. Những khái niệm này rất trừu tượng, invisible, vô hình, nên chưa được quan tâm nghiên cứu. Nhưng không sao, thế nào rồi Y học cũng sẽ biết. Trong lĩnh vực Vật lý rất nhiều loại vật chất vô hình còn bị phát hiện ra mà. Sóng vô tuyến điện từ, tia X, tia neutrino, sóng hấp dẫn, đều vô hình cả mà. Mỗi người do phước riêng của mình mà có cấu trúc Khí lực vô hình khác nhau. Cấu trúc Khí lực vô hình này tham gia điều chỉnh các hoạt động của cơ thể. Và nó cũng có công năng khống chế sự nổi loạn của các bộ phận cơ thể. Cùng hít khói độc giống nhau, nhưng người bị phát sinh bệnh ung thư, người thì vượt qua không sao cả. Cùng ăn thức ăn bị nhiễm độc giống nhau, nhưng người chỉ bị ói mửa, chóng mặt, rồi hết, còn người khác lại bị ung thư. Cùng bị vong đeo bám giống nhau, nhưng người bị ung thư, người chỉ đau nhức rồi thôi. Hai người hung dữ giống nhau, nhưng người bị ung thư, người thì không bị. Khí lực vô hình mạnh cũng giúp trấn áp, khống chế, không cho các bộ phận cơ thể nổi loạn ly khai mà phát bệnh ung thư là như vậy. Một số nghiên cứu thống kê cho thấy rõ ràng nếu siêng năng tập luyện thể lực, người ta giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư là vì như thế, bởi vì sự tập luyện làm tăng Khí lực vô hình cho cơ thể. Một số loại thuốc thảo dược cũng có tính giúp trấn áp khống chế sự nổi loạn của bộ phận cơ thể để trị bệnh ung thư. Còn xạ trị là dùng tia phóng xạ để tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng cũng làm nhiễm xạ chung cơ thể. Mà tia phóng xạ cũng chính là thủ phạm gây ung thư cơ mà. Hoá trị là dùng hoá chất độc hại để giết tế bào ung thư, nhưng cũng giết nhầm rất nhiều tế bào khác, và cũng gây nổi loạn ở các bộ phận khác, gây di căn nhanh hơn. Các nhà khoa học cũng đã cảnh báo nguy cơ gây ung thư từ thịt đỏ bò…. Ăn thịt bò dễ bị ung thư hơn ăn thứ khác. Lý do là cái phần tâm thức cục bộ của miếng thịt đó mạnh quá, không chịu rời đi dù đã được nấu chín. Ăn vào, cái tâm thức KHÔNG GIỐNG AI đó lang thang trong cơ thể người ăn. Nó gây gổ, kích động, làm loạn, chiếm giữ bộ phận, rồi nổi loạn luôn. Có những loại thịt cá khi bị nấu chín rồi thì cái phần tâm thức cục bộ của nó cũng tan luôn. Còn thịt bò thì cái tâm thức cục bộ của nó mạnh đặc biệt, nấu chín rồi vẫn không tan đi. Trong suốt cuộc đời của chúng ta, đã rất nhiều lần bộ phận này bộ phận kia nổi loạn qua các hình thức viêm tấy, sưng, lỡ, đau… nhưng rồi lại dịu xuống bình thường. Ở những mức độ đó, y học chưa cho là ung thư, nhưng thật ra nó có bản chất ung thư rồi. Chỉ cần chọc giận nó thêm chút nữa, nó nổi loạn vĩnh viễn, là thành ung thư thiệt luôn. Đạo Phật gọi là phước nghiệp chưa đủ. Nó nổi loạn, nhưng vì còn phước nên khiến ta hoặc vô tình ăn nhằm thứ gì vào làm nó dịu lại, hoặc ta gặp thầy thuốc cho đúng thuốc khiến nó thôi. Rồi lần khác nó lại nổi loạn, và vì còn phước nên ta lại xứ lý êm dịu. Nếu ta hết phước thì ta cứ loay hoay chọc giận nó hoài và nó nổi loạn luôn. Ta để ý sẽ thấy, bộ phận nào bị bệnh một lần sẽ hay dễ lập lại. Nếu bệnh rề rề hoài thì ta gọi là mạn tính. Nếu bệnh rồi hết, rồi tái phát, thì ta lại coi thường, chứ nó có mầm mống nổi loạn chưa trị dứt. Ta tập quan sát loại bệnh không phải ung thư, và loại bệnh được xếp vào loại ung thư. Loại xếp vào ung thư thì dữ dội hung hiểm hơn, lì lợm hơn, khó dạy bảo hơn. Ta nghe kể khối u vừa tách ra khỏi cơ thể đặt lên khay là nó nhảy tưng tưng. Ta cứ cho đó là phản ứng thần kinh tự nhiên, mà không nghĩ nó là con vật có tâm thức riêng. Nếu ta nhìn cái khối u vừa tách ra đang giãy giụa mà hiểu rằng đó là con vật độc lập, nào giờ bám trong cơ thể mình, thì sẽ thấy kinh sợ thật sự. Việc chữa trị bệnh ung thư cũng khó mà cũng không khó. Việc chữa trị sẽ là khó nếu ta chọn con đường đối đầu sống mái với nó. Việc chữa trị sẽ là không khó nếu ta chọn con đường nhu hòa thuyết phục xoa dịu dẫn dụ. Nó hung dữ đấy, nhưng Nhu thắng Cương, ta kiên nhẫn dẫn dụ mãi sẽ được. Điều đầu tiên ta phải hiểu đó là một tâm thức hung dữ gắn vào bộ phận cơ thể ta. Sự hung dữ của nó có phần lỗi của ta, dù có khi ta không cố ý. Ta sống lâu trong môi trường ô nhiễm, ta ăn mãi thực phẩm đầy hoá chất độc hại, ta để cho tâm lý căng thẳng mãi mà không chịu hóa giải, ta không sám hối để diệt trừ ác tâm tiềm tàng nhiều kiếp còn ẩn núp trong tâm mình… Để cho bộ phận cơ thể đó hết tâm thức hung ác, thì ta phải có phương pháp bao vây xử lý nhiều yếu tố cùng lúc. Vừa là phải điều chỉnh lại thức ăn, sửa lại môi trường sống sạch sẽ, tu dưỡng tâm lý thanh thản hiền lành, sám hối ác tâm nhiều kiếp, đối xử tử tế với mọi người để khẳng định thiện tâm của mình… Nếu có duyên gặp thuốc thảo dược thiên nhiên hiệu quả thì thêm phần hy vọng. Có người sống hết sức hiền lành bình thường, bỗng phát bệnh ung thư phổi. Nguyên nhân được tìm thấy là cứ thắp hương rồi ở phòng kín đó tụng kinh niệm Phật. Lâu ngày phổi chịu không nổi nên nổi loạn luôn. Có người bỗng phát hiện ung thư gan, chỉ bởi vì mê trà sữa trân châu mà không biết nó sản xuất ở đâu, làm bằng nhựa gì. Ngày nào cũng một ly cho đã miệng. Có người bỗng phát hiện ung thư máu, có cả trẻ em, chẳng tìm được nguyên nhân. Thật ra đều do loại sữa mà bố mẹ mua về, sữa đó bổ sung nhiều thành phần làm các tế bào máu nổi giận. Sữa đó rời xa tự nhiên, cái tự nhiên mà cơ thể con người đã phù hợp. Có người bỗng phát hiện ung thư não, chỉ vì những ý nghĩ sai thầm kín không biết để mà gột rửa. Cứ mưu mô tính toán thâm độc hại người, đâu biết rằng nó trở lại hại mình. Ta nên hiểu, khối u là ung thư thể chất, còn biến dạng tâm thần là ung thư tâm lý. Cái nào cũng khổ sở hết. Việc ăn thịt cá nhiều quá, rước vào người nhiều tâm thức hạ cấp xa lạ, chẳng khác gì uống thuốc độc. Ta nên hiểu súc vật có tâm lý rất hạ cấp, sân si, ích kỷ, hung hãn, dâm dục… Ta đưa các tâm lý đó vào người mình thông qua miếng thịt thì chẳng khác nào nhuộm tâm hồn của mình bằng các thứ tồi tệ. Chỉ trừ trường hợp con vật đó chết một cách không phải do giết hại, ta rơi vào tình cảnh chẳng có gì ăn. Ta cần phải sống và con vật “hiến tạng” cho ta cũng có được thêm chút phước, thì không sao. Ta hiểu những điều này để điều chỉnh cuộc sống của mình cho lành mạnh, giúp ngăn ngừa và trị liệu ung thư. Tuy nhiên, nếu bị ung thư thật sự rồi thì việc trị liệu phải mạnh mẽ hơn rất nhiều. Vi khuẩn xấu ác cũng là tác nhân chọc tức các bộ phận cơ thể ta nổi loạn. Có những vi khuẩn hiền lành, thân thiện, hợp tác với cơ thể ta, không kích động chọc tức tế bào ta. Nhưng cũng có những tế bào xấu ác, khi xâm nhập cơ thể ta liền kích động tế bào nổi loạn gây ung thư. Như Helicobacter Pylori HP lọt vào dạ dày sẽ gây ung thư dạ dày. Hoặc Human Papilloma Virus HPV gây ung thư cổ tử cung. Còn anh HIV thì khiếp quá rồi. Thế các vi khuẩn đó ở đâu xuất hiện, để rồi lây lan tùm lum vậy? Các vi khuẩn đó xuất hiện do môi trường thích hợp với chúng đã có. Môi trường sinh ra các sinh vật phù hợp với nó. Sau này có dịp ta sẽ nói qua đề tài này và tìm thấy lời giải cho nguồn gốc loài người. Con người, trong quá trình sống, đã tạo ra môi trường thuận lợi cho các vi khuẩn xấu ác xuất hiện, rồi các vi khuẩn đó quay lại tấn công con người. Vì thế, tạo ra một môi trường sống lành mạnh là bổn phận của tất cả chúng ta để bảo vệ cho chính ta và cho cộng đồng. Tạo môi trường sống lành mạnh. Ta đã biết môi trường sống cũng là tác nhân gây ung thư, thế nên việc tạo ra môi trường sống lành mạnh là việc bảo vệ cho ta và cho cộng đồng. Môi trường sống thì thật đa dạng, gồm Nguồn Không khí, Nguồn nước, Nguồn đất, Nguồn thực vật, Nguồn động vật, Nguồn ánh sáng, Nguồn âm thanh, Nguồn quan hệ tình cảm với cộng đồng, Nguồn tri thức ta tiếp nhận, Nguồn sản phẩm do con người tạo ra, Nguồn nghệ thuật, Nguồn kỹ thuật…. Tạo một môi trường sống lành mạnh có nghĩa là làm cho tất cả các Nguồn trên đều lành mạnh. Nghe không tưởng quá. Chẳng ai làm nổi nếu cả thế giới không đồng lòng. Chúng ta chỉ có thể làm được vài điều nho nhỏ để xem là góp phần tạo nên một môi trường sống lành mạnh. Ví dụ như ta có thể hạn chế tối đa việc đổ xà phòng vào cống rãnh, vì nước thải từ cống rãnh sẽ đổ về các dòng sông, giết chết sự sống của dòng sông. Rồi những dòng sông thối đen đó tạo nên một môi trường sống bất lợi cho chúng ta, ngấm ngầm gây ung thư cho chúng ta. Bây giờ bệnh ung thư nhiều, đừng tưởng là chỉ do thức ăn nhiễm độc hóa chất, mà còn do hơi độc từ các dòng sông lặng lẽ bốc vào không khí, xâm nhập vào da, vào phổi, vào mắt, vào tai, vào mũi của chúng ta. Hoặc loài người phải nhanh chóng tìm loại nhiên liệu thay thế dầu mỏ trong việc tạo ra năng lượng cho hoạt động của máy móc xe cộ như hiện nay. Khói xe không được xử lý, thả vào không khí, tấn công thẳng vào phổi, vào mắt của con người, trước khi tạo nên hiệu ứng nhà kính làm nóng bầu khí quyển lên. Rồi con người có cách sống tạo ra nhiều rác, và không đủ đạo đức hay thông minh để tái sử dụng rác đó, bèn đem vứt bỏ. Rác đó gây ô nhiễm nguồn nước, nguồn không khí, nguồn đất, làm góp phần gây bệnh ung thư nhiều hơn. Rác nhiều hơn, và bệnh ung thư cũng tăng theo. Rất nhiều loại hóa chất phục vụ đời sống con người, sơn cho đẹp, ăn cho giòn, tẩm cho thơm… đều là độc hại gây ung thư cả. Con người ban đầu hăm hở sản xuất nhiều thứ được cho là thông minh, nhưng không ngờ lại tạo ra một môi trường sống thiếu lành mạnh, và con người phải chịu bệnh tật nhiều hơn xưa. Ai có ý thức sâu sắc trong bổn phận là phải tạo ra môi trường sống lành mạnh để bảo vệ cho cộng đồng, đó là người có đạo đức lớn. Và ta hiểu, đạo đức nào cũng có phước báo mai sau. Khắp đây đó trên thế giới có nhiều thầy lang, lương y, thầy thuốc gia truyền… có các bài thuốc trị ung thư. Tỉ lệ chữa trị trên 40% đã là đáng ca ngợi rồi. Ta cũng nghe hằng ngày trên các mục quảng cáo thuốc này ngừa ung thư, thuốc kia trị ung thư. Có nơi còn dùng cả nước tiểu để chữa ung thư nữa. Họ không nói dối. Chỉ là ta mua về uống không có tác dụng gì cả, vẫn lên đường như thường. Lý do là lượng thức ăn mỗi ngày của ta có tác dụng rất lớn đối với việc trị liệu ung thư. Tất cả cái gì ta đưa vào miệng đều có dược tính, đều là thuốc, dù là miếng cơm hay chút rau đậu thịt cá. Nhưng hầu hết chúng ta chọn sai mục tiêu, ăn cho ngon, chứ không chịu ăn cho khỏe mạnh. Ta nhìn bàn tiệc của mọi người, nhiều món ăn ngon, nhiều thức uống ngon, nhưng chẳng có lợi gì cho sức khỏe cả. Đạm động vật vào người nhiều quá là dư thừa, dư thừa thì ứ đọng, ứ đọng thì chỉ có hại. Bài này ta nói về việc ăn uống để chữa ung thư. Ta đã biết, môi trường cơ thể khi bị biến động xấu sẽ khiến cho bộ phận cơ thể nổi loạn ly khai, gây thành u bướu độc hại chống lại chủ thể. Nếu ta điều chỉnh sự biến động đó lại, tạo lại môi trường cơ thể tốt lành, thì có thể góp phần vào việc xoa dịu sự phẫn nộ của các tế bào ung thư, đưa chúng trở lại phát triển theo đúng quy luật chung của cơ thể. Ta vừa dùng từ CÓ THỂ GÓP PHẦN VÀO VIỆC XOA DỊU. Nghĩa là việc chọn lựa thức ăn không phải là yếu tố quyết định trăm phần trăm vào việc chữa trị ung thư, nhưng sẽ là yếu tố khá quan trọng. Sự phẫn nộ nổi loạn của bộ phận cơ thể đến mức độ thành ung thư rồi thì không đơn giản nữa. Ta cũng bất ngờ phát hiện ra rằng rất nhiều thực phẩm thiên nhiên có tính năng xoa dịu tâm thức của các bộ phận cơ thể. Không như bệnh tiểu đường, tuyến tụy rất kén chọn thực phẩm, tinh bột thì phải là cơm, rau thì phải là rau muống, nước chấm thì phải là nước tương truyền thống của Việt Nam. Còn ung thư thì có rất nhiều loại rau quả giúp điều chỉnh môi trường cơ thể hiền lành lại. Rau má mọc ngoài bờ ruộng, rau càng cua mọc dại bờ ao, rau trai giống như cỏ bên đường làng, một số loại nấm như linh chi hay lim xanh mộc nhĩ…, nhiều loại lắm, đều có tính chữa ung thư. Nếu ta đem các loại rau nấm đó về phân chất thì có khi chẳng thấy chất gì đặc biệt. Chúng chỉ có tác dụng LÀM HIỀN LÀNH lại môi trường cơ thể ta mà thôi. Mà ung thư thì rất cần một môi trường cơ thể hiền lành để thôi nổi loạn. Thông thường các loại cay nồng thì gây kích thích cơ thể, bất lợi cho việc Hiền Lành hóa cơ thể. Ớt, rượu, gừng, tỏi có nơi cho tỏi có tác dụng ngừa ung thư… đều cay nồng nên hạn chế dùng nếu muốn chữa bệnh nhanh. Ông bà mình có đưa ra khái niệm món ăn nóng hay mát rất hay. Từ cảm nhận trực quan, ông bà mình nói sương xâm mát, đậu xanh mát, hột é mát, rau lang mát, nhiều lắm. Các thức ăn MÁT đó cũng rất giống với tính năng điều hòa môi trường cơ thể hiền lành êm dịu lại. Có khi ta chỉ tìm ăn các thức ăn MÁT đó mà cũng lành bệnh ung thư. Còn ông bà mình đã chê thức ăn nóng thì có lẽ nó sẽ dễ gây ung thư. Một số củ có bột cũng giúp chữa ung thư như khoai môn, khoai mỡ. Vài loại củ có xơ như củ nùng, củ năng, củ sen, cũng chữa ung thư. Rau muống ta thường ăn, chấm với nước tương truyền thống, trị được tiểu đường, cũng trị được ung thư. Ít ai ngờ, rau muống luộc, lấy nước, nướng quả cà chua dầm vào, đó chính là thuốc trường sinh của người Việt Nam. Nó tạo ra một cơ thể rất hiền lành. Điều rất lạ là càng chế biến phức tạp cho ngon miệng thì càng chọc giận cơ thể. Chẳng hiểu sao cơ thể lại ngược với vị giác của ta. Miệng ta thấy ngon thì cơ thể ta thấy ghét. Các gia vị như mì chính bột ngọt là kẻ thù của cơ thể. Ai ăn mì chính bột ngọt nhiều thì thế nào cũng bị tiểu đường, suy thận, Ung thư. Một ông chữa tiểu đường bằng CORA, rất phấn khởi khi chỉ số đường huyết từ 527mg/dl,nghĩa là cao nhất thế giới, mỗi ngày phải chích 4 mũi insulin và uống 2 liều thuốc mà đường vẫn giao động từ 300-500. Vậy mà ăn CORA 4 ngày thì đường huyết rơi xuống 137 liền. Hiệu quả phi thường này chưa từng có trên thế giới. Nhưng sau đó ông nhìn bát cơm rau muống và than, không lẽ sống mà ăn thế này thì còn gì là cuộc sống. Ông quay lại với 4 mũi thuốc chích chích bụng, 2 liều thuốc uống, với mức đường 500, và với rượu thịt ngon say. Ta tôn trọng sự chọn lựa của ông. Nhưng ta cũng ngưỡng mộ một vị thượng tọa lặng lẽ ngồi ăn 3 bát cơm xịt xì dầu ngon lành. Rồi đường huyết từ 285 rơi xuống 110 tức khắc. Có lẽ việc chọn lựa lối ăn uống đạm bạc nhưng lành mạnh để sống khỏe có liên quan đến công đức tu tập. Người có công đức tu hành dễ dàng ăn uống đạm bạc để tránh bệnh hơn là người không biết tu. Ăn giản dị mà vẫn thấy ngon, đó là tâm hồn hiền thiện. Tâm hồn của chủ thể hiền thiện thì các bộ phận cơ thể cũng bị ảnh hưởng mà hiền lành theo luôn. Ta có thể dùng các loại đỗ đậu để cung cấp đạm cho cơ thể. Chất béo thì tạm ngưng khi đang chữa bệnh. Chất ngọt như đường mía tinh luyện thì tránh xa. Chẳng hiểu sao tế bào ung thư rất thèm đường ngọt và chất béo. Đưa hai loại đó vào là ung thư hưng phấn ngay. Còn địa long là cái gì rất đặc biệt. Địa long giúp cơ thể tăng sức đề kháng, giúp cơ thể khống chế sự nổi loạn của các bộ phận cơ thể. Thực sự địa long như món quà của trời đất tặng con người. Nhưng đừng lạm dụng, để dành cho người khác cùng dùng. Như ta đã hiểu, Ung thư là bộ phận cơ thể ta bỗng biến thành ác thú ngay trong người ta mà ta không còn kiểm soát được nữa. Muốn trở thành ác thú thì bộ phận đó vốn đã có phần tâm thức độc lập tương đối nào rồi. Rồi vì lý do nào đó mà bộ phận đó nổi loạn ly khai chống lại chủ thể. Lý do thì cũng nhiều. Muốn chữa trị ung thư thì ta thường hay tìm cách cắt bỏ con thú dị biến đó ra, hay tiêu diệt các tế bào của khối ung thư đó đi. Giải pháp này dễ hiểu vì phù hợp với suy nghĩ của con người từ thời mông muội hoang sơ, trái ý nhau thì giết đi, ai không phục tùng ta thì giết đi. Nhưng thực tế cho thấy giải pháp tiêu diệt này không có bao nhiêu hiệu quả, rất tốn kém, rồi bệnh nhân cũng chết trong đau đớn. Vì vậy chúng ta cùng nhau tìm hiểu một giải pháp khác, sao cho hợp lý hơn. Đầu tiên ta nhìn bệnh ung thư theo góc nhìn mới, phát hiện nguyên nhân nổi loạn của bộ phận cơ thể. Khi bộ phận đó nổi loạn rồi thì rất hung hãn khó trị. Ta bắt đầu bằng cách tạo dựng môi trường sống lành mạnh. Kế tiếp ta dùng thức ăn để tạo môi trường hiền lành cho cơ thể. Nhưng con ác thú này vẫn chưa chịu thuần phục đâu. Bài này ta nói về công năng của Khí công và Thiền định để tạo một môi trường tâm thức hiền thiện nhằm gây ảnh hưởng lên tâm thức hung hãn của con ác thú ung thư. Phương pháp Âm Dương khí công có công năng rất lớn trong việc vừa tịnh hóa tâm hồn ta, vừa tạo sức mạnh tiềm ẩn hỗ trợ cơ thể chữa bệnh. Sức khỏe giúp khống chế sự ly khai của bộ phận cơ thể đang nổi loạn. Sự thanh tịnh tâm hồn giúp hạ bớt cơn hung hãn của các tế bào ung thư. Đây là hai gọng kềm tấn công vào tế bào ung thư. KHỐNG CHẾ sự ly khai của bộ phận ung thư, HẠ BỚT tâm thức hung hãn của tế bào ung thư. Nếu chưa bị ung thư, ta vẫn phải tập Âm Dương khí công đều đặn để ngừa ung thư. Nếu bị ung thư rồi, thì ta càng phải siêng tập Âm Dương khí công nhiều hơn nữa. Cái hay của Âm Dương khí công là giúp tâm ta nhanh chóng thanh tịnh. Và đương nhiên thì hơi thở 1-5 đó sẽ tạo nên nội lực dần dần. Nhưng công năng của Khí công thì chưa đủ để thuần phục con ác thú trong người ta hoàn toàn. Cần phải có Thiền định nữa. Khi tọa thiền, ta hướng tâm về mục tiêu Vô ngã, tạo nên một sự hiền thiện đặc biệt thẳm sâu trong tâm thức. Ta biết, con ác thú ung thư có nguyên nhân từ tâm hung ác tiềm tàng của chính chúng ta. Nay ta tọa thiền hướng về mục tiêu Vô ngã thì ta đang dọn dẹp lại bề sâu của tâm thức mình. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến tâm thức của khối ung thư. Khi hướng về mục tiêu Vô ngã mỗi ngày, ta làm lay động sự hung hãn của con ác thú ung thư. Tâm ta đạo đức dần, hiền lành dần, vị tha dần, tha thứ dần, khoan dung dần. Các tâm lý đạo đức đó bao vây khối u, chuyển hóa dần tâm thức của khối u. Ngoài những lúc tập Âm Dương khí công và tọa thiền ra, ta còn cố gắng làm nhiều việc phước thiện nữa. Vì sao, bởi vì nội tâm hiền thiện phải được bảo đảm bằng việc làm phước thiện. Khi làm được nhiều việc phước thiện, tức là ta đã xác định sự hiền thiện trong nội tâm của mình. Và một nội tâm hiền thiện vững chắc đó ắt hẳn sẽ làm xiêu lòng con thú ung thư. Tập Âm Dương khí công, Tọa thiền hướng về mục tiêu Vô ngã, làm nhiều việc phước thiện, đó là 3 công phu dọn dẹp tâm hồn ta, tạo nên sự hiền thiện trong nội tâm ta, để ảnh hưởng lên tâm thức của khối u. Ta đã biết mỗi bộ phận cơ thể đều có phần tâm thức riêng, vừa liên quan với chủ thể, vừa độc lập với chủ thể. Khi yên ổn bình thường thì tâm thức của các bộ phận thường hòa theo chủ thể. Khi bị tác động gì bất thường vượt giới hạn thì tâm thức của các bộ phận nổi loạn ly khai chống lại chủ thể. Lúc đó bộ phận này trở thành khối bệnh ung thư, phát triển riêng, phát triển bừa bãi không theo quy luật của cơ thể nữa. Ta đã nói về việc tạo một môi trường sống lành mạnh để gây ảnh hưởng tốt cho cơ thể. Ta đã nói về thức ăn để tạo một môi trường cơ thể hiền lành bao vây khối ung thư. Ta đã nói về việc luyện tập khí công, thiền định, làm việc thiện để gây ảnh hưởng lên tâm thức của khối ung thư. Hôm nay ta nói về liệu pháp Quán từ bi và lễ Phật sám hối, để triệt tiêu hoàn toàn tâm thức hung dữ của khối ung thư. Khi phát bệnh ung thư thì khối u đó phản kháng lại tâm thức của chủ thể. Nhưng nếu chủ thể mạnh mẽ khởi lên tâm lý đạo đức Từ Bi thì sẽ bắt đầu gây ảnh hưởng ngược vào tâm thức của khối ung thư. Ta ngồi yên lặng lẽ. Ngồi được kiết già hoa sen thì càng tốt. Ta nguyện lòng mình yêu thương tất cả chúng sinh. Chúng sinh có nhiều loại. Những người thân yêu của ta, những người có liên quan quyền lợi tình nghĩa với ta, những người chống đối mưu hại ta, những người gặp qua đường hàng ngày mà ta chẳng để ý, những người mà ta chỉ biết họ có mặt trên thế giới mà chẳng bao giờ gặp gỡ, những người giàu sang quyền quý, những người cơ khổ bần hàn, những người hiền lành đạo đức, những người độc ác hung bạo, những chúng sinh đang bị đọa dưới địa ngục, những chúng sinh đang bị đọa thân súc sinh, những chúng sinh đang làm vong linh đói khổ, tất cả, tất cả, khắp muôn nơi… Ta nguyện trải lòng yêu thương hết, nguyện tất cả chúng sinh cũng biết yêu thương nhau. Ta nguyện mong sao cho tất cả chúng sinh đều giác ngộ đạo lý để cuối cùng đều được thoát khỏi khổ đau. Rồi ta để tâm nơi khối u, nguyện nếu có chúng sinh nào bám vào đấy thì hãy chuyển tâm thức an vui từ bi siêu thoát… Mỗi ngày ta đều Quán từ bi như vậy vài lần. Rồi ta quỳ lễ Phật, xin sám hối tội lỗi từ nhiều kiếp xưa mà ta đã quên mất, lúc đó vì vô minh mà gây tạo ác nghiệp. Tâm hung ác xưa ắt hẳn còn núp kín trong lòng. Cúi xin Phật chứng minh tâm thành sám hối, và xin Phật gia hộ cho hết bệnh ung thư, xin cho tâm thức của các khối u đều biến thành tâm hiền lành vô hại. Ta cũng hứa với Phật, sẽ sống theo lời Phật dạy từ đây đến muôn kiếp sau, sống yêu thương, phụng sự, tu hành, cùng chia sẻ đạo lý đến tất cả chúng sinh… Ta lễ Phật nhiều với tâm tôn kính tuyệt đối, với lòng sám hối vô bờ. Đây là liệu pháp tâm linh cao cả vô cùng, vừa giải nghiệp, vừa chuyển hóa tâm thức của khối u biến thành u lành, rồi hòa tan vào cơ thể như xưa. Nhiều lương y đã phát hiện ra đặc tính chữa ung thư của một số thảo dược, như cây xạ đen, rong biển, đinh lăng… Tại sao gọi là Thuốc, bởi vì các thầy thuốc tin rằng nó có sức mạnh chữa bệnh mà không cần bệnh nhân phải thay đổi lối sống, không cần phải thay đổi món ăn. Còn nếu phải thay đổi lối sống hay món ăn là bởi vì thuốc chưa đủ mạnh. Các vị có cơ sở để tin như vậy. Một số loại thuốc đi vào cơ thể, được tế bào ung thư hấp thu, và khiến cho tế bào ung thư bị khống chế. Nếu loại thuốc đó chỉ khống chế tế bào ung thư mà không làm hại các tế bào bình thường thì xem như đây là thuốc quý. Thực tế trong cuộc đời cũng có những phương thuốc đặc biệt như vậy chứ chẳng không. Tuy nhiên, vị thuốc đó sẽ hiếm, dùng đại trà không đủ. Mà thuốc quý như vậy thì các vị lương y cũng dè dặt phổ biến cho công chúng. Một số lương y đã từng chữa lành ung thư cho vài người này, nhưng đã bó tay nhìn một số người khác ra đi. Thảo dược có tác dụng với tỉ lệ phần trăm nào đó chứ không trăm phần trăm. Điều này có nghĩa là ngoài dùng thảo dược ra, bệnh nhân còn phải bổ sung các liệu pháp khác nữa. Nhưng tiếc là có người biết dùng thêm các liệu pháp khác, có người chỉ ỷ lại vào thuốc thảo dược mà không bổ sung cần thiết. Các vị lương y cứ nhìn khối u rồi cho thử nghiệm các vị thuốc, ai hên thì trúng nhằm lần thử thuốc thành công và bớt bệnh. Thấy người này hết bệnh, vị lương y mừng quá bèn kết luận mình đã tìm ra công thức thảo dược trị ung thư. Lần sau đem bài thuốc đó chữa cho người khác thì kết quả là đưa bệnh nhân về miền vĩnh hằng rất nhanh. Lý do là, không biết tại sao. Chính vì sự bấp bênh mơ hồ trong việc trị liệu ung thư mà chưa có mấy người dám xưng mình chữa khỏi ung thư cả, vẫn tiếp tục mò mẫm tìm kiếm. Còn phẫu thuật cắt bỏ khối u, xạ trị hay hoá trị thì chỉ giúp bệnh viện ung bướu quá tải. Người này chưa hết hay chưa chết thì đã có nhiều người bệnh khác nhập viện giành chỗ. Quan điểm của tây y trước sau như một, phải tiêu diệt tế bào ung thư. Còn thuốc thảo dược thì không tiêu diệt khối u, mà chỉ là làm cho hết khối u. Cách nghĩ hiền hơn. Nhưng điều quan trọng là ta phải hiểu UNG THƯ là gì cái đã. Chưa hiểu rõ bản chất của bệnh ung thư thì ta có chữa gì cũng chỉ là mò mẫm. Khi nào may thì hết bệnh, xui thì hết sống. Nếu ta hiểu rõ bản chất của ung thư, ta cũng sẽ trân trọng các bài thuốc thảo dược đã từng chữa được ung thư theo tỉ lệ phần trăm nào đó, nhưng ta biết như thế vẫn chưa đủ. Ung thư không đơn giản. Ta cần một cuộc tấn công toàn diện, bao vây toàn diện, sửa đổi toàn diện, điều chỉnh toàn diện để biến đổi các khối u trở thành hiền lành vô hại. Sự cải cách toàn diện đó bao gồm cả sự phát triển đạo đức của chính chúng ta. UNG THƯ, ban đầu là tai họa giáng xuống cuộc đời ta, nhưng biết đâu, đó cũng chính là cơ hội để ta thay đổi toàn bộ con người mình, mà sau đó, ta sẽ sống để chỉ còn lại mục tiêu đem niềm vui, hạnh phúc, chân lý cho nhau mà thôi. Ai không học được bài học này thì đành bỏ cuộc chơi, về với nấm mồ hiu quạnh. Ai học được bài học này thì trở thành một con người mới, con người mà khi chết đi, mọi người sẽ tiếc thương vô hạn, còn chư thiên thì mừng đón ngợi khen. Ta tạm dừng ở đây, hẹn lâu lâu sẽ trở lại với đề tài nguồn gốc loài người TT. Thích Chân Quang
ung thu tuyen thuong than