Bà Phạm Thúy Hà - Phó Trưởng Phòng GD&ĐT quận 4 cho biết, địa phương là một trong những nơi luôn trong tình trạng thiếu giáo viên tiếng Anh, điển hình là 2 trường tiểu học Đinh Bộ Lĩnh và tiểu học Đống Đa. Hiện, quận 4 đang thiếu 15 giáo viên tiếng Anh và Tin học nhưng 2 năm qua không tuyển dụng được giáo viên nào.
Tình trạng lây nhiễm Covid-19 ở Anh nghiêm trọng đến mức nào? Trong bối cảnh nhiều ca nhiễm Covid-19 mới ở Việt Nam gần đây có liên quan đến những
Thực trạng học tiếng Anh của học sinh THCS. 19/10/2022 by PartialCommissioner. Đánh giá của bạn post. LTS: Chỉ ra một số nguyên nhân cũng như giải pháp để việc dạy tiếng Anh ở Việt Nam ngày càng hiệu quả, TS Lê Quốc Chun đã gửi đến Báo điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết.
1. Thống kê bệnh trầm cảm ở Việt Nam Một thống kê cho thấy có đến 6% dân số tại TP.HCM bị bệnh trầm cảm. Nếu trước kia người mắc trầm cảm đa phần nằm trong độ tuổi từ 60 - 65 tuổi, thì hiện nay trầm cảm đang có xu hướng trẻ hóa với độ tuổi từ 15 - 27 tuổi. Nữ giới bị trầm cảm nhiều hơn nam giới.
Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Trước khi đi vào chi tiết, người viết phải thừa nhận rằng ban đầu đã có cảm giác hơi rối khi đọc nghiên cứu “English in Vietnam” Anh ngữ tại Việt Nam. Tran Phuong Minh, tác giả chính của nghiên cứu, đã dành một thời lượng đáng kể ở phần mở đầu để giới thiệu Việt Nam và lịch sử ngàn năm chống Bắc thuộc của đất nước. Tác giả thậm chí còn đề cập cụ thể cả cuộc chiến giành độc lập đầu tiên của Việt Nam khi Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán. Đó đều là những thông tin có phần khá… xa lạ cho một nghiên cứu về Anh ngữ tại Việt Nam. Song khi nhìn thấy tấm bản đồ trong đó ghi nhận đầy đủ chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, người viết nhận ra mục tiêu lớn hơn hay ở góc độ nào đó là cao cả hơn của phần mở đầu. Tác giả có lẽ muốn dùng cơ hội đăng tải nghiên cứu của mình để phản kháng lại những bản đồ “đường lưỡi bò” được các học giả Trung Quốc tuyên truyền tràn lan rầm rộ. Chỉ tính riêng điểm này, chưa bàn đến nội dung của nghiên cứu, người viết đã vô cùng trân trọng tinh thần của tác giả Minh. Tuy nhiên, không phải không có sự kết nối giữa các thảo luận trên với sự tồn tại của tiếng Anh ở Việt Nam đương đại. Tiếng Trung từng là thứ ngôn ngữ tinh hoa thống trị hệ thống học thuật, quản trị hành chính và văn thơ Việt Nam suốt một ngàn năm. Vậy vai trò của tiếng Anh là gì, và nó bắt rễ tại Việt Nam như thế nào hiện nay? Anh ngữ và các ngoại ngữ có ảnh hưởng trước đó tại Việt Nam Nghiên cứu bắt đầu với việc hệ thống hóa các ngoại ngữ trong chiều dài lịch sử Việt Nam. Theo phân tích của Minh, các ngoại ngữ được sử dụng phổ biến tại Việt Nam từ trước đến nay đều không nằm ngoài ảnh hưởng của một thế lực ngoại bang thống trị hoàn toàn đất nước. Tiếng Hán là kết quả của hàng ngàn năm người phương Bắc thống trị Việt Nam về mặt quân sự, tư tưởng và văn hóa. Nhưng nó cũng nhanh chóng bị thay thế ngay khi giới tinh hoa Việt Nam có thời gian phát triển riêng ngôn ngữ của mình tiếng Nôm và tiếp cận với các loại ngôn ngữ khác, giúp họ thoát được cái rễ văn hóa Trung Hoa không mong muốn. Một ông đồ viết thư pháp tiếng Hán tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ảnh Ngọc Thắng/ Thanh Niên. Tiếng Pháp, giống như thế, tồn tại chủ yếu nhờ vào sự áp đặt của chính quyền thực dân, và luôn bị đặt vào tình thế phải cạnh tranh với thứ ngôn ngữ Latin mà chính các nhà truyền giáo của họ khởi dựng. Ngay sau năm 1954, tiếng Pháp nhanh chóng mất đi sự hấp dẫn của mình. Tương tự, tại miền Bắc từ năm 1954 cho đến sau năm 1975, giáo dục tiếng Trung và tiếng Nga được ưu ái do hai quốc gia anh cả này viện trợ dồi dào cho chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong suốt và sau chiến tranh. Nhưng khi các khó khăn kinh tế giai đoạn Chiến tranh lạnh lộ rõ, các quốc gia xã hội chủ nghĩa buộc phải thân ai nấy lo, cả tiếng Nga lẫn tiếng Trung đều “rớt đài” khỏi đấu trường ngoại ngữ Việt Nam. Tiếng Anh, với tư cách là ngôn ngữ kinh tế toàn cầu, là thứ ngôn ngữ bắt rễ tại quốc gia chúng ta tự nhiên hơn cả, theo cách tiếp cận của tác giả. Thú vị hơn, khác với các loại ngôn ngữ trước đó du nhập vào Việt Nam theo con đường “chính chủ”, tiếng Anh đi cùng các nhà đầu tư Đài Loan, Singapore, Hong Kong và Liên minh châu Âu vào Việt Nam, với tư cách là “lingua franca” ngôn ngữ phổ thông thứ hai của những nhóm này. Các bậc phụ huynh Việt Nam, kỳ vọng rằng con em mình có chỗ đứng trong các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, là những người đầu tiên khởi động phong trào học tiếng Anh tại Việt Nam. Tác giả ghi nhận, phải đến năm 1993, Hội đồng Anh British Council, nhánh văn hóa của Đại sứ quán Vương quốc Anh tại Việt Nam, mới bắt đầu chương trình English Language Training Đào tạo tiếng Anh cho các nhân viên công quyền tại Việt Nam. Và đến tận năm 2002, các chương trình đào tạo tiếng Anh chính thức, “chính chủ” của người Anh mới được ra mắt công chúng. Tương tự, “nhà truyền bá” tiếng Anh quan trọng khác là Hoa Kỳ cũng rất chậm chân trong cuộc chơi. American Center Trung tâm Hoa Kỳ ở cả hai thành phố lớn Bắc và Nam của đất nước có vai trò khá quan trọng trong giao lưu và phổ biến văn hóa Mỹ, nhưng có vẻ không năng động lắm trong các hoạt động phổ biến ngôn ngữ Anh. Phải đến tận năm 2016, Peace Corp đã được Luật Khoa đề cập ở đây mới được giới thiệu và hoạt động tại Việt Nam nhân sự kiện chuyến thăm chính thức của Tổng thống Obama. Tuy nhiên, Peace Corp tập trung vào các hoạt động giao lưu văn hóa – khoa học – xã hội nhiều hơn là phổ biến ngôn ngữ và giới thiệu những biện pháp quy chuẩn hóa chúng, dù họ có các chương trình giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em. Đào tạo Anh ngữ tại Việt Nam vừa thiếu định hướng, vừa thiếu đa dạng? Tiêu đề phụ là của người viết tự đặt và không chắc tác giả có đồng ý với kiểu giật tiêu đề này hay không. Tuy nhiên, với các thông tin được cung cấp trong nghiên cứu, có nhiều lý do để cảm thấy thất vọng về tình trạng đào tạo thứ ngôn ngữ toàn cầu này suốt 30 năm qua. Trước tiên, dù nguồn gốc du nhập Anh ngữ của Việt Nam rất đa dạng với sự xuất hiện của Anh ngữ pha trộn phương ngữ Singapore, Hong Kong, Đài Loan hay châu Âu, chúng gần như không có biểu hiện hay ảnh hưởng gì đến việc đa dạng hóa phương pháp đào tạo, ngữ âm hay từ vựng tiếng Anh tại Việt Nam. Mặc khác, cân nhắc mô hình đào tạo tiếng Anh của Việt Nam, hiệu quả có thể cho là gần như bằng không. Chương trình học tiếng Anh liên kết tại một trường tiểu học ở Hà Nội. Ảnh Thu Anh/ Kinh Tế Đô Thị. Các nghiên cứu của tác giả Minh vào bên trong hệ thống đào tạo cho thấy ngoại ngữ, mà đặc biệt là tiếng Anh, đã được giới thiệu và trở thành một môn học bắt buộc của chương trình đào tạo phổ thông từ năm lớp ba. Để tốt nghiệp cấp hai, các học sinh lớp chín đều phải trải qua kỳ thi quốc gia mà trong đó tiếng Anh chiếm 90% lựa chọn ngoại ngữ của học sinh Việt Nam là một môn thi bắt buộc. Tương tự, kỳ thi trung học phổ thông quốc gia cũng là nơi mà các học sinh buộc phải vượt qua môn tiếng Anh. Tuy nhiên, gần 12 năm đào tạo Anh ngữ dường như chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, không có bất kỳ tác động nào đáng kể lên năng lực tiếng Anh của học sinh sinh viên. Tác giả Minh dẫn chứng, vào năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định 1400/QD-TTg nhằm phê duyệt Chương trình Ngoại ngữ Quốc gia hướng tới mục tiêu 2020 National Foreign Language Program – NFLP 2020. Trong đó, ngân sách lên đến 500 triệu USD được sử dụng nhằm hướng đến kết quả là tất cả học sinh rời hệ thống giáo dục phổ thông đều có một kiến thức tốt về Anh ngữ trong lý thuyết lẫn thực hành. Tuy nhiên, hơn 85% nguồn tài chính trên được dùng để… “đào tạo lại” các giảng viên Anh ngữ trong hệ thống giáo dục phổ thông vốn bị cho là có năng lực dưới chuẩn trung bình. Trong khi đó, các nỗ lực xem xét lại chương trình đào tạo, quy chuẩn hóa và đa dạng hóa phương pháp giảng dạy ngoại ngữ, tăng cường kết hợp… lại nhận được rất ít sự chú ý. Quan trọng hơn, việc áp đặt 400 giờ đào tạo nâng cao cho các giáo viên Anh ngữ, vốn vẫn phải song song hoàn thành các nghĩa vụ giảng dạy thông thường, càng khiến cho nỗ lực chấn chỉnh chương trình đào tạo ngoại ngữ tại Việt Nam không đạt được hiệu quả gì đáng kể. Như dự đoán, trong năm 2013, các bài kiểm tra năng lực cho thấy vẫn có tới giáo viên Anh ngữ dưới chuẩn yêu cầu. Tình hình không hề thay đổi trong bài kiểm tra hai năm sau đó. Đến năm 2018, theo các đánh giá khách quan từ những học giả Việt Nam, NFLP 2020 chính thức phá sản. Chính phủ Việt Nam hiện nay đã gia hạn mục tiêu từ năm 2020 sang năm 2025. Tương tác và thái độ đối với Anh ngữ tại Việt Nam Một điểm trừ của nghiên cứu theo người viết, là tác giả chỉ dừng lại ở mức độ quan sát và cảm nhận, hơn là có một phương pháp nghiên cứu sáng tạo và hiệu quả hơn để đánh giá việc sử dụng Anh ngữ trong các hoạt động đời sống thường ngày tại Việt Nam. Tuy nhiên, những đánh giá – tổng hợp của Minh cũng đáng xem xét và cân nhắc về thực trạng áp dụng Anh ngữ tại Việt Nam. Các bạn trẻ tại Việt Nam ở các thành phố lớn chủ động giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài. Ảnh Thanh Niên. Ví dụ, Minh cảm thấy rằng giới trẻ Việt Nam tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đủ mức độ thông thạo để vượt qua các cuộc trò chuyện với du khách nước ngoài liên quan đến hoạt động mua bán lẻ và dịch vụ. Ngoài ra, tiếng Anh cũng được xem là mang lại cho người sử dụng địa vị xã hội cao hơn. Vì vậy, thanh thiếu niên Việt Nam thường chuyển đổi qua lại giữa việc sử dụng tiếng Anh và tiếng Việt trên mạng xã hội. Liên quan đến vốn từ có gốc Anh ngữ, từ giai đoạn trước 1975, “mít-tinh” meeting, “ti-vi” TV hay “top” top đều đã được sử dụng như một phần ngôn ngữ bản địa. Cho đến nay, nghiên cứu chỉ ra phải có đến gần 800 từ tiếng Anh xuất hiện thường xuyên trên báo chí địa phương. “Internet”, “hot boy/girl”, “shop”, “fan”, “fast food”… phổ biến đến mức chúng hoàn toàn thay thế các từ tiếng Việt tương ứng. Tuy nhiên, thực trạng hiện tại cho thấy mô hình đào tạo không hiệu quả, việc sử dụng Anh ngữ chưa rộng rãi mà theo người viết có thể dùng cụm “chưa được bình dân hóa”. Ngoài ra, tư duy ưa thích sử dụng tiếng Anh “chính chủ”, “cao cấp” dẫn đến việc người Việt Nam kể cả các giáo viên rất khó tiếp cận tiếng Anh như ngôn ngữ đại chúng thứ hai English as Lingua Franca – ELF. Rất nhiều người Việt chưa chấp nhận sự khác biệt về phương ngữ, ngữ âm, từ vựng hay văn hóa tiếng Anh nằm ngoài hai vùng “rốn” là Anh hay Hoa Kỳ. Thay vào đó, các giáo viên gò học sinh vào việc phát âm đúng từng câu chữ theo chuẩn Anh hoặc chuẩn Mỹ, trong khi bản thân các học sinh cũng khinh thường các phiên bản tiếng Anh “không chuẩn”. Việc giới thiệu các phiên bản khác của tiếng Anh như Singlish tiếng Anh của người Singapore hay Indian-English tiếng Anh của người Ấn Độ… đều được xem là những việc không nên, có thể làm hỏng nền tảng ngôn ngữ và làm “ô nhiễm” môi trường đào tạo Anh ngữ. Theo nhiều nhà ngôn ngữ học, định kiến này dẫn đến cách hiểu sai về tiếng Anh, không chấp nhận sự thật rằng nó là một ngôn ngữ toàn cầu với vô số biến thể khác nhau. Đây là một trong những rào cản của việc phổ biến Anh ngữ và gắn kết nó với văn hóa đại chúng Việt Nam.
NGUYỄN THỊ TUYẾTTrường Đại học Hải Phòng Nhận bài ngày 20/11/2019. Sửa chữa xong 24/11/2019. Duyệt đăng 25/11/ tắtAbstract The paper focuses on the current situation of teaching ESP English for Specific Purposes at universities and some solutions to improve the efficiency of ESP teaching for Situation of teaching, ESP. 1. Mở đầuĐất nước Việt Nam đang chuyển mình, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới trên mọi phương diện, vấn đề dạy và học Tiếng Anh trong chương trình giáo dục ở nước ta hiện nay, được nhà nước và xã hội rất quan tâm và chú trọng. Nhiều cuộc hội thảo, cải cách đã được tổ chức và thực hiện ở các bậc học về những vấn đề như nội dung chương trình, đổi mới phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng giáo viên, trang thiết bị, tài liệu giảng dạy, cải cách phương pháp kiểm tra, đánh giá và công nhận trình độ người học theo định hướng Chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, những nỗ lực này chưa đáp ứng được yêu cầu của một xã hội ngày một năng động và thay đổi thường xuyên như hiện nay. Do vậy, nhiều vấn đề cần được xem xét một cách cụ thể và chi tiết hơn, trong đó có vấn đề dạy và học Tiếng Anh ở bậc đại học nói chung và đặc biệt là việc giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành ở các trường đại học nói riêng. Kết quả khảo sát thực địa của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ năm 2006 có phần nhận xét về phương pháp dạy và học đại học của Việt Nam như sau “Phương pháp giảng dạy không hiệu quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên SV và giảng viên trong và ngoài lớp học; quá nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao như phân tích và tổng hợp, dẫn đến hậu quả là học hời hợt thay vì học chuyên sâu; SV học một cách thụ động”[5]. Hơn nữa, việc dạy và học Tiếng Anh chuyên ngành English for Specific Purposes nói riêng vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của hình thức giáo dục theo hướng thi cử. Hầu hết SV đều coi trọng kết quả bài thi hơn là khả năng sử dụng tiếng Anh như một ngoại ngữ giao tiếp năng động. Theo Tiến sĩ Hoàng Văn Vân mục đích của việc học một ngôn ngữ là có thể sử dụng nó để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của bản thân với một người khác bằng ngôn ngữ đó [7]. Tuy nhiên, SV hầu hết chưa hiểu được mục đích quan trọng vậy, nhiều SV làm bài thi viết tiếng Anh có điểm cao nhưng kỹ năng giao tiếp chưa đạt yêu cầu dẫn đến việc chưa đáp ứng được mong muốn, nhu cầu của các nhà tuyển dụng khi tốt nghiệp đại Tiếng Anh chuyên ngành và thực trạng giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành cho SV Thực tế, việc giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành không nằm ngoài mục tiêu phát triển đầy đủ 4 kỹ năng ngôn ngữ nghe, nói, đọc, viết cho học viên như nền tảng tiếng Anh cơ sở General English. Tuy nhiên, tiếng Anh chuyên ngành dành cho mục đích chuyên nghiệp, mục đích cụ thể, tập trung sự chú ý của người học theo các yêu cầu ngôn ngữ và giao tiếp trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể. Từ thập niên 50 của thế kỷ 20, việc giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành ở các nước tiên tiến đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển với một số đầu sách điển hình cùng các cách tiếp cận khác nhau từ cơ bản đến chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực [2]. Ví dụ các giáo trình như “English for Banking and Finance” cho SV ngành Tài chính ngân hàng, “English for Economics” cho SV ngành Kinh tế, “Be My Guest”, “English for Tourism” cho SV ngành du lịch, hoặc “English for Accounting” cho SV ngành Kế toán,..Có thể nói vấn đề chính của giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành là xây dựng cho SV kỹ năng giao tiếp và sử dụng văn bản chuyên ngành tiếng Anh trong lãnh vực mà họ được đào tạo. Xét về chương trình và mục tiêu đào tạo, việc dạy kiến thức Tiếng Anh chuyên ngành cùng với việc phát triển kỹ năng giao tiếp là cần thiết. Bởi lẽ, theo chương trình đào tạo SV đã được học một số học phần Tiếng Anh cơ bản và được lĩnh hội các kiến thức nền về lĩnh vực chuyên ngành qua các học phần bằng tiếng mẹ đẻ. Nhưng qua bài thi hết học phần Tiếng Anh chuyên ngành hàng năm và qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp bằng tiếng Anh với các SV học xong học phần Tiếng Anh chuyên ngành, người viết với tư cách là giảng viên giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành nhiều năm nhận thấy khả năng giao tiếp cơ bản, đặt câu đơn giản của phần lớn các SV này rất yếu. Nhiều lớp thậm chí có trên 50% SV trong một lớp học không đạt điểm qua học phần. Rất nhiều em sử dụng cấu trúc, thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh như cấu trúc tiếng Việt và việc phát âm các từ, đặc biệt là các từ chuyên ngành của SV không đúng. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan và đã được người viết đưa ra sau đây như là một số bất cập điển hình- Thời lượng cho các học phần Tiếng Anh cơ sở trong năm thứ nhất ở đại học không nhiều, chưa đủ để bồi đắp kiến thức ngôn ngữ cho SV sẵn sàng học học phần Tiếng Anh chuyên ngành do một số lượng lớn SV đầu vào đại học có vốn tiếng Anh quá kém. Các trường đại học thường áp dụng theo quy định chung và lập chương trình đào tạo cho các học phần Tiếng Anh cơ sở chỉ là 8 tín chỉ. Nếu SV không tự giác tích cực tự học thêm ngoài giờ trên lớp thì sẽ không thể đạt yêu cầu về các kỹ năng ngôn ngữ để có thể học tiếp học phần Tiếng Anh chuyên ngành. Trên thực tế, nhiều SV khi học học phần Tiếng Anh chuyên ngành vẫn còn nợ các học phần Tiếng Anh cơ sở. Điều này cản trở nhiều cho việc tiếp thu lĩnh hội kiến thức cũng như kỹ năng ngôn ngữ cuả SV trong việc giảng dạy học phần Tiếng Anh chuyên Một thực tế là SV trong một lớp học đến từ nhiều địa phương trong và ngoài tỉnh - đa số từ các huyện, xã, vùng nông thôn với điều kiện học tập khác nhau nên tất yếu có sự phân hóa đa dạng về trình độ và kỹ năng sử dụng tiếng Anh English competence. Đó là chưa kể đến động cơ học tập khác nhau của các em. Nhiều SV chưa nhận thức đươc tầm quan trong của ngoại ngữ tiếng Anh là chìa khóa xin việc và thành công sau này. Điều này có nghĩa là với cùng một nội dung và phương pháp giảng dạy nhưng mức độ tiếp thu và thực hành của từng SV trong một lớp học chuyên ngành có sự chênh lệch, khác biệt lớn. Do đó một số khó khăn phát sinh trong quá trình dạy và học là không thể tránh khỏi. - Mặt khác, sĩ số lớp học phần Tiếng Anh chuyên ngành quá đông thường hơn 50 SV. Do vậy, việc chú ý quan tâm phát triển ngôn ngữ của giảng viên trong giờ học đối với từng SV là rất hạn chế. Giảng viên phải giành một thời gian khá nhiều để ổn định trật tự, và việc quản lý và bao quát tất cả SV, đặc biệt SV ngồi cuối lớp là khó khăn lớn đối với người dạy. Do vậy, nhiều SV không có cơ hội thực hành, phát triển kỹ năng ngôn ngữ, nhất là đối với SV thụ động, nhút nhát tự ti về kiến thức ngôn ngữ bản thân. Mà số lượng SV này thường không phải là ít do xuất phát điểm về hoàn cảnh và trình độ của SV như đã nói ở phần Thời lượng cho các học phần Tiếng Anh chuyên ngành không nhiều, phần lớn là 2 tín chỉ 30 tiết, chỉ có một số ít ngành số tín chỉ này lên tới 3 đến 5 như các ngành kinh tế hay du lịch. Việc cung cấp kiến thức mới song song với việc luyện tập kỹ năng sẽ phiến diện, nhất là đối với SV không chủ động tìm tòi, nghiên cứu tài liệu trước và sau giờ học, mặc dù giáo viên giảng dạy đã luôn cố gắng tận dụng tối đa việc hướng dẫn cho SV tự học, thực hành, luyện tập ngoài giờ học trên lớp. - Cơ sở vật chất giành cho các lớp học Tiếng Anh chuyên ngành còn hạn chế, chưa có phòng chuyên biệt, chưa được trang bị đầy đủ hệ thống máy chiếu, mà điều này thực sự cần thiết cho việc minh họa các hoạt động hay thuật ngữ chuyên ngành trong giờ dạy. SV sẽ dễ tiếp thụ khái niệm, kiến thức và ghi nhớ nhanh hơn, say mê với bài giảng thông qua các hình ảnh sinh động và thực tế. 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành Từ những thực tế trên và trong khả năng hiểu biết của tác giả, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Tiếng Anh chuyên ngành như sau Trước hết việc phân loại trình độ đầu vào cho SV là rất cần thiết. Điều này giúp người dạy có thể thiết kế bài giảng trọng tâm hơn, tổ chức các hoạt động ngôn ngữ được tốt hơn. Bản thân SV với cùng trình độ sẽ có tâm lý học tập trung hơn, dễ dàng chia sẻ, trao đổi kiến thức, thực hành ngôn ngữ một cách nhiệt tình hơn. Điều này giúp giờ học ngôn ngữ đạt hiệu quả Trong điều kiện hiện tại của các trường đại học thì việc đảm bảo các lớp học phần Tiếng Anh chuyên ngành với sĩ số dưới 30 SV là hợp lý, mặc dù theo nghiên cứu của Tony Dudley-Evans, Maggie Jo St John một nhóm học Tiếng Anh chuyên ngành lý tưởng chỉ 6 đến 8 người học [1]. Với sĩ số lớp học trung bình 30 SV, theo kinh nghiệm của người viết đã giảng dạy gần 20 năm trong trường đại học ở Việt Nam, giáo viên có thể quản lý và tổ chức các hoạt động lớp học hiệu quả. Do vậy, người học có cơ hội thực hành giao tiếp, tham gia các dạng bài tập luyện ngôn ngữ trên lớp, người dạy nắm bắt, hiểu rõ trình độ, tâm lý của SV phát triển qua từng tiết học để có phương pháp giảng dạy phù hợp cho mỗi một SV trong lớp học của mình. Phương pháp lấy người học làm trung tâm có thể áp dụng hiệu quả với lớp học này. Đặc biệt với giờ học Tiếng Anh chuyên ngành đòi hỏi SV phải tham gia tích cực, lĩnh hội không những kiến thức về chuyên ngành của mình, mà còn phải hiểu những kiến thức đó bằng ngôn ngữ tiếng Anh, tham gia các hoạt động giao tiếp với những thuật ngữ chuyên ngành, thì phương pháp này thực sự tạo điều kiện cho SV tập trung, chủ động phát triển giao tiếp ngôn ngữ Theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ, các đơn vị sự nghiệp công lập, trong đó có các trường đại học công lập có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính và nhiều trường đại học đã thực hiện tự chủ thí điểm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP ngày 24/10/2014 của Chính phủ đã có những thành công nhất định [3]. Đồng thời với chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo là chương trình đào tạo tăng cường môn Ngoại ngữ đối với giáo dục đại học, hy vọng rằng trong thời gian tới việc tự chủ phân bố thời lượng học tập và giảng dạy Tiếng Anh nói chung, cũng như tiếng Anh chuyên ngành nói riêng sẽ được các trường đại học chủ động điều chỉnh, chú trọng gia tăng số lượng tín chỉ hay mô-đun cho tiếng Anh chuyên ngành cùng với việc tự chủ đầu tư, chi phí nhanh và kịp thời để trang bị cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học Tiếng Anh chuyên ngành. Đây thực sự sẽ là bước đột phá đúng đắn giúp cho các trường đại học có thể nâng cao chất lượng giảng dạy ngoại ngữ, trình độ giao tiếp tiếng Anh cho SV tốt nghiệp, tạo điều kiện cho họ dễ dàng bắt kịp hội nhập kinh tế toàn cầu, nhờ đó tăng vị thế của trường đại học. 4. Kết luậnThực tế về trình độ giao tiếp tiếng Anh của SV tốt nghiệp đại học đang là hồi chuông cảnh báo về chương trình và phương pháp đào tạo ở các trường đại học. Ông Michael Lương - giám đốc kỹ thuật của Intel Việt Nam đã nói “ kết quả học tập phải áp dụng được các khái niệm có tính lý thuyết vào ứng dụng thực tế…Một SV “toàn diện” có bảng điểm cao vẫn chưa đủ, phải có kỹ năng giao tiếp …” Và ông đề nghị trong cải tiến chất lượng giáo dục đại học, cần “cách mạng về chương trình giảng dạy, trong đó chú ý tiếng Anh vì giao tiếp tiếng Anh của SV quá yếu”[6].Những kiến nghị nêu trên chắc hẳn kéo theo những phát sinh về kinh phí đào tạo và nguồn nhân lực. Nhưng thiết nghĩ, với chủ trương đổi mới tự chủ trong quản lý giáo dục ở các trường đại học của Chính phủ, cùng với quyết tâm tìm kiếm hiệu quả trong việc dạy và học Tiếng Anh chuyên ngành, chúng ta phải có một số thay đổi, trong đó có thay đổi nhận thức. Việc đề xuất ý tưởng thực ra chỉ là bước khởi đầu. Nhưng việc nhận thức đầy đủ của chúng ta và của SV về toàn bộ quá trình dạy và học Tiếng Anh nói chung và tiếng Anh chuyên ngành nói riêng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và theo hướng cải cách giáo dục đại học, mới là vấn đề chính./. Tài liệu tham Developments in English for Specific Purposes. 2. Nguồn 4. Hutchinson, Tom & Waters, Alan, English for Specific Purposes A learner-centered approach, Publishing house Cambridge University, Ngô Tứ Thành, Cần đổi mới cách giảng dạy ở đại học. Nguồn ngày 12/3/ Tuoi Tre Newspaper 07/01/ Van H Van, The current situation and issues of the Teaching of English in Viet Nam, Japanese, 2008.
Đăng bởi Admin vào lúc 1121 - 28/01/2021 NGƯỜI TRÊN THẾ GIỚI NÓI TIẾNG ANH! Con số khổng lồ trên đã mô tả chính xác nhất xu thế toàn cầu hóa của của Anh ngữ! Tầm quan trọng của việc học Tiếng Anh là điều không phải bàn cãi. Và để chuẩn bị cho con em mình một hành trang vững vàng cho tương lai, rất nhiều bậc phụ huynh đã và đang chú trọng đầu tư cho các em đi học Tiếng Anh cả ở trường và tại các trung tâm. Nhưng liệu trẻ đã được học Tiếng Anh đúng cách? Và học Tiếng Anh như thế nào mới là đúng cách? Tiếng Anh và Tiếng Việt đều là ngôn ngữ. Vậy nên quy trình học Tiếng Anh cũng không khác gì so với học Tiếng Việt. Các em nhỏ cũng đều phải tuần tự trải qua các bước “NGHE” thụ động rồi bắt chước, sau đó mới có thể “NÓI” – giao tiếp, cuối cùng mới là “ĐỌC” và “VIẾT”. Tuy nhiên có một thực tế rằng trẻ em Việt Nam đang học Tiếng Anh theo một quy trình bị đảo lộn theo trình tự VIẾT – ĐỌC – NGHE – NÓI. Các em học Tiếng Anh theo kiểu dập khuôn và vô cùng nhàm chán. NGHE và NÓI hoàn toàn không được chú trọng, Các em phải cắm đầu chép từ vựng và các công thức ngữ pháp rồi nhồi hết vào đầu để đạt điểm cao cho bài thi cuối kỳ. Cách học này chắc chắn sẽ không thể giúp trẻ giao tiếp Tiếng Anh tốt, mà trái lại nó sẽ hình thành thói quen ngại giao tiếp, phát âm sai và càng lớn lên thì trẻ càng khó sửa! Rõ ràng, để giao tiếp giỏi Tiếng Anh hay bất kỳ một ngoại ngữ nào, đều phải tuân theo bản năng tiếp thu ngôn ngữ của con người. Bắt đầu là NGHE – NÓI rồi mới đến ĐỌC – VIẾT. Ngoài ra học Tiếng Anh cũng có độ tuổi “Vàng” của nó, các nhà nghiên cứu của Anh đã chứng minh bằng khảo sát thực nghiệm trên đứa trẻ và nhận thấy trẻ học ngôn ngữ thứ hai trong khoảng thời gian từ 4 đến trước 15 tuổi có nhiều khả năng giao tiếp trôi chảy như người bản xứ hơn vì ở độ tuổi này trẻ có khả năng bắt chước rất nhanh, bắt đầu hình thành tư duy và có rất nhiều thời gian cho việc luyện tập giao tiếp.
Trong thời đại công nghệ hiện nay, việc học tiếng Anh đã trở nên dễ dàng và tiện lợi hơn bao giờ hết, đặc biệt là khi các công cụ trực tuyến và ứng dụng di động đang dần thay đổi cách chúng ta học tập và truy cập thông tin. Tuy nhiên, việc học tiếng Anh vẫn đang gặp phải nhiều thách thức, đặc biệt là ở Việt Nam, nơi mà tiếng Anh đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống và nghề giảng dạy từ các cấp tiểu học đến trung học, tiếng Anh đã trở thành một môn học quan trọng và bắt buộc trong hầu hết các trường học ở Việt Nam. Tuy nhiên, chương trình giảng dạy hiện tại tập trung chủ yếu vào việc giảng dạy ngữ pháp, cấu trúc câu và từ vựng, bỏ qua khía cạnh quan trọng nhất của tiếng Anh đó là giao tiếp. Do đó, học sinh Việt Nam thường gặp khó khăn trong việc sử dụng tiếng Anh một cách tự tin và hiệu quả khi đối thoại với người nước đây là một số nhược điểm của việc học tiếng anh tại các trung tâm tiếng anh Việt Nam thông thường – Mô hình lớp học quá đông học sinh/lớp Ở Việt Nam hiên nay, 1 lớp trung bình từ 15 – 20 học viên có khi lên đến 25 học viên. Với số lượng này khiến giáo viên không thể nắm bắt và quan tâm đến từng học viên. Từ đó, những học sinh học tốt cứ tốt còn những bạn học kém lại ngày càng kém.– Không có môi trường giao tiếp Không chỉ tiếng Anh mà bất cứ ngôn ngữ nào cũng cần được thực hành và tôi luyện trong một môi trường thích hợp thì mới có thể phát huy hết khả năng. Đa số người Việt hiện nay gặp khó khăn khi giao tiếp tiếng Anh với người nước ngoài do tâm lý ngại nói, ngại sai và sợ bị đánh giá.– Chỉ học chuyên sâu học ngữ pháp Phương pháp dạy tiếng Anh tại Việt Nam hiện đều theo lối mòn là lấy “ngữ pháp” và “từ vựng” làm gốc, trong khi nền tảng cho việc học tiếng Anh hiệu quả lại nằm ở phần “phát âm”. Người Việt được tiếp xúc với ngôn ngữ này từ sớm nhưng đa phần mục đích học tiếng Anh chỉ đề phục vụ cho các bài kiểm tra trên lớp hay các kì thi nên áp lực học ngữ pháp là chính. – Ít cơ hội trải nghiệm ở Việt Nam, cách học phổ biên vẫn đang áp dụng đó là cô giáo nói, học sinh nghe và nhắc lại. Cách học này vô tình tạo nên thói quen “học vẹt”. Học sinh ít có cơ hội rèn luyện khả năng nói, thuyết trình trước đám đông, ít được gặp gỡ và trò chuyện với người bản xứ. Chính vì thế khi gặp một người bạn nước ngoài, các bạn thường thiếu tự tin, không biết bắt đầu câu chuyện từ đâu,… Dần dần theo thời gian, việc thiếu tự tin và tính chủ động trong giao tiếp sẽ trở thành thói quen xấu của bạn và khiến bạn có cái nhìn tiêu cực rằng mình không thể nào giao tiếp tốt bằng tiếng khắc phục tình trạng này, nhiều học sinh đã tìm đến các trung tâm tiếng Anh giao tiếp để nâng cao kỹ năng giao tiếp của mình. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể đầu tư thời gian và tiền bạc để tham gia các khóa học tại trung tâm. Ngoài ra, việc tự học tại nhà cũng không phải là giải pháp hoàn hảo cho tất cả mọi người, do đó, kết quả đạt được thường không đáp ứng được mong nhiên, có một phương pháp học tiếng Anh mới nhất đang thu hút sự quan tâm của rất nhiều người học tại Việt Nam đó là phương pháp học tiếng Anh giao tiếp nội trú theo mô hình Philippines. Trung tâm tiếng anh giao tiếp nội trú TAT ACADEMYPhương pháp học tiếng Anh theo mô hình Philippines đang trở thành xu hướng mới trong giáo dục ngoại ngữ hiện nay. Chuyên giao mô hình Philipines tới Việt Nam, TAT Academy là trung tâm Anh Ngữ nội trú đầu tiên tại Việt Nam hứa hẹn mang lại cho học viên những trải nghiệm học tập tiếng Anh đầy sáng tạo, hiệu quả và thú vị. Xây dựng khả năng “Think and Talk”TAT ACADEMY tập trung vào việc xây dựng khả năng ngôn ngữ của học viên thông qua việc nghĩ bằng tiếng anh và nói bằng tiếng anh. Học viên sẽ được học các kỹ năng ngôn ngữ như ngữ pháp, từ vựng, phát âm, viết và đọc. Không chỉ thế, học viên còn được trang bị 8 kỹ năng cao cấp Đàm phán, thuyết trình, thảo luận, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề, thể hiện ý tưởng, phản xạ giao tiếp, soạn thảo văn bảnMô hình học tiếng Anh theo mô hình Philippines cũng đa dạng hoá phương pháp giảng dạy, nhằm giúp học viên học tập một cách linh hoạt và đa dạng. Mô hình này sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau, bao gồm học tập hợp tác, thảo luận nhóm, và các hoạt động thực hoạt hoàn toàn bằng tiếng AnhTại TAT Academy, các bạn sẽ được học tập trong môi trường 100% tiếng Anh. Điều đơn giản là ăn, ngủ, nghỉ với tiếng Anh, thậm chí khi đi vệ sinh cũng phải sử dụng tiếng Anh. TIẾNG ANH của mỗi cá nhân sẽ được cải thiện nhanh chóng nếu ở trong môi trường tốt và trên hết là giáo viên có tâm và có trình đội ngũ giáo viên được tuyển chọn kỹ càng, là những giáo viên tốt nhất bao gồm giáo viên nước ngoài và giáo viên Việt Nam, cùng với đó là bộ giáo trình phù hợp nhất để giúp các anh chị có thể cải thiện tiếng Anh trong thời gian tập và du lịch tại cùng 1 thời điểmTrụ sở trung tâm còn cung cấp cơ hội trải nghiệm văn hóa và du lịch tại Đà Nẵng – một thành phố đa dạng về văn hóa và du lịch. Các học viên sẽ có cơ hội gặp gỡ, kết nối và học hỏi từ các giảng viên và sinh viên đến từ nhiều quốc gia khác cả các yếu tố trên đã chứng minh rằng mô hình học tiếng Anh nội trú tại TAT Academy là một giải pháp hiệu quả cho các bạn muốn nhanh chóng nâng cao kỹ năng Tiếng Anh của với các bạn đã mệt mỏi với việc học tiếng Anh hàng chục năm nhưng kết quả vẫn không đạt được, mô hình học tiếng Anh nội trú tại TAT Academy là giải pháp đáp ứng nhu cầu của các bạn muốn nâng cao khả năng giao tiếp, luyện nghe và đọc hiểu tiếng bạn muốn đăng ký học tập tại TAT Academy, hãy liên hệ với chúng tôi để biết thêm thông tin về thủ tục đăng ký và học phí. Các bạn cũng có thể truy cập trang chủ của TAT Academy để cập nhật thông tin về lịch khai giảng và thời gian học tập tại trung tâm. Tại TAT Academy, chúng tôi sẽ cung cấp hỗ trợ và tư vấn cho các học viên trong suốt thời gian học tập tại trung đến với TAT Academy để nâng cao khả năng tiếng Anh của mình và trải nghiệm văn hóa và du lịch tại Đà Nẵng!Đăng ký khóa học tiếng Anh nội trú tại TAT AcademyĐể biết thêm thông tin về TAT Academy, vui lòng truy cập trang web hoặc liên hệ với TAT Academy qua số điện thoại 0961 33 42 đăng ký khóa học tiếng Anh nội trú tại TAT Academy để có trải nghiệm học tập tuyệt vời và phát triển kỹ năng ngôn ngữ của mình một cách toàn diện nhất!
Theo bảng xếp hạng do EF English Proficiency Index EPI công bố mới đây, Việt Nam xếp thứ 65/100 quốc gia và khu vực về khả năng sử dụng tiếng Anh. Hà Lan tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng năm 2020. Cụ thể, năm 2020, Việt Nam đạt 473/800 điểm, xếp thứ 13/24 châu Á và 65/100 quốc gia và khu vực trên thế giới. Hai thành phố có khả năng thông thạo tiếng Anh cao nhất của Việt Nam vẫn là Hà Nội và Tuy nhiên, so với thế giới, mức điểm này vẫn chỉ thuộc nhóm thông thạo thấp. Cũng theo báo cáo, châu Âu tiếp tục dẫn đầu thế giới về trình độ tiếng Anh với 8 nước nằm trong top 10. Trong đó, đứng đầu thế giới là Hà Lan với điểm đánh giá 652/800; theo sau lần lượt là Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Áo, Bồ Đào Nha, Đức, Bỉ,… Bảng xếp hạng 100 quốc gia và khu vực về khả năng sử dụng tiếng Anh Còn ở châu Á, Singapore tiếp tục là nước dẫn đầu với 611 điểm và cũng xếp thứ 10 thế giới. Đây cũng là quốc gia duy nhất ở khu vực châu Á được đánh giá thông thạo tiếng Anh ở mức độ rất cao. Xếp thứ 2 châu Á là Philippines với 562 điểm, xếp trong nhóm thông thạo cao. Các quốc gia và vùng lãnh thổ còn lại ở trong nhóm trung bình, thấp và rất thấp. Năm 2020 là năm thứ 10 Tổ chức EF Education First của Thụy Sĩ thực hiện bảng xếp hạng khả năng sử dụng tiếng Anh EF English Proficiency Index, dựa trên dữ liệu từ hơn 2,2 triệu người thuộc 100 quốc gia và vùng lãnh thổ không sử dụng tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ. Đây cũng là lần đầu tiên, thang điểm của EF EPI được chuyển sang 800 thay vì 100 như trước đây để phù hợp với Khung tham chiếu trình độ ngôn ngữ chung của châu Âu. Bảng xếp hạng vẫn chia làm 5 nhóm mức độ thông thạo rất cao ứng với cấp độ C1 và C2, cao ứng với cấp độ B2, trung bình ứng với cấp độ B2, thấp ứng với cấp độ B1 và rất thấp ứng với cấp độ B1 và A2. Thúy Nga Tỷ lệ giáo viên tiếng Anh thi đạt năng lực ngoại ngữ thấp Đó là tồn tại được đại diện Bộ GD-ĐT chỉ ra về hoạt động bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ giáo viên Tiếng Anh phổ thông.
thực trạng tiếng anh ở việt nam